Tình trạng Việt Cộng phạm pháp tại nước Đức sẽ đi về đâu?

Nguyên nhân – diễn tiến – hậu quả

 

Nguyen Hue Nhat - Dang Thi Dinh

 

 

Kể từ 30.4.1975, cộng sản Bắc Việt đã thôn tính miền Nam tự do, hàng triệu người Việt Nam ở miền nam đã tìm cách trốn đi bằng đường biển, vì không chịu nỗi sự khủng bố và chính sách độc tài. Nhưng đảng CSVN nhận thấy đây là cơ hội kiếm tiền béo bở, vì càng nhiều người ra đi, càng nhiều chết chóc trên biển, càng nhiều tài sản để lại mà đảng CSVN không bị mang tiếng giết người cướp của như Khmer Đỏ ở Cambodge. Đảng CSVN đã từng là bậc thầy của Khmer Đỏ. Đảng CSVN đứng ra thu tiền người Việt Nam vượt biểân (từ 3.000 đến 6.000 US đô-la mỗi đầu người), chưa kể tài sản của họ bỏ lại cho đảng viên chia nhau.

 

Từ đầu thập niên 1980, hàng triệu người Việt Nam tỵ nạn ở các nước Âu Mỹ bắt đầu gởi tiềân và quà về tiếp tế cho thân nhân trong nước, trong khi chính sách hà khắc, cưỡng bách kinh tế mới, chính sách  học tập cải tạo... khiến cho toàn dân bị nghèo đói; CSVN thấy nguồn ngoại tệ của Việt Kiều vượt biên gởi về quá nhiều.

 

Từ 1986, CSVN bắt chước Liên Xô đổi  mới vì tình hình kinh tế các nước cộng sản nói chung đã suy sụp trầm trọng trong khi CSVN bị cấm vận kinh tế vì xâm lăng Cambodge. CSVN thấy rằng áp lực quốc tế buộc VN phải rút hàng trăm ngàn quân đội từ Cambodge về nước. Số quân đội hồi hương nầy sẽ trở nên một làn sóng thất nghiệp khổng lồ và gây ra nạn kiêu binh trong xã hội Việt Nam. Để giải quyết vấn đề nầy, CSVN đã cho quân đội mình trà trộn ở lại Cambodge để thay thế khoảng trống những ngườøi dân Cambodge đã bị Khmer Đỏ giết. Hiện nay hàng triệu người Việt Nam đã lai giống với ngườøi Khmer!  Ai có thể thống kê được con số tài sản vật chất và tinh thần của Cambodge đã bị CSVN tước đoạt suốt 10 năm xâm lăng đất nước nầy? Chưa kể con số nhân mạng cả hai bên đã mất!

 

Từ 1987 bị Liên -xô giảm viện trợ, Việt Nam  phải giảm biên chế nhiều nhân viên cán bộ. Lực lượng lao động dư thừa nầy được đưa qua lao động các nước Đông Aâu để trả nợ chiến tranh. Chỉ có thành phần đảng viên, cán bộ, cựu quân nhân, con em liệt sỹ (lý lịch đỏ) mới được đi lao động nước ngoài. Toàn vùng Đông Aâu có hơn 500.000 người Việt Nam lao động. Trước khi bức tường Bá Linh sụp đỗ, cộng sản Đông Đức có khoảng 60.000 người lao động Việt Nam. Đây cũng là một nguồn ngoại tệ chính thức và không chính thức cho đảng CSVN.

 

Việt cộng đi lao động nước ngoài phải giữ lề lối sinh hoạt chính trị chi bộ, đảng bộä giống như khi còn ở trong nước. Ví dụ: nguyên một đại đội cựu chiến binh, hay một cơ quan ở VN bị giải thể được gởi đi lao động trong một nhà máy ở Đông Đức, tại đây, mọi cơ cấu, mọi sinh hoạt đều đượïc kiểm soát chặt chẽ bởi các đảng viên đầu sỏ làm đội trưởng hoặc thông dịch viên. Đó là những sỹ quan tình báo, công an, mật vụ...Sau 1989, bức tường Bá-linh sụp đỗ, các thành phần cán bộ Việt Cộng được lịnh lặn xuống để ngấm ngầm nắêm lại quần chúng của họ. Họ xin tỵ nạn chính trị, hoặc làm  hôn thú... Hầu hết các lý do tỵ nạn chính trị của số cán bộ nầy được CSVN cung cấp đúng với đòi hỏi của luật tỵ nạn Cộng Hòa Liên Bang Đức. Với đầu óc ma lanh của cộng sản, họ đã khéo lợi dụng tình trạng nửa đen nửa trắng khi bức tường mới sụp đỗ để buôn lậâu thuốc lá và các mặt hàng khác. Hàng ngàn người Việt Nam đã trở nên triệu phú DM bất ngờ. Tình trạng nầy càng cám dỗ thêm hàng trăm ngàn người Việt khác đi ra nước ngoài để vào nước Đức “hốt mưa vàng”.

 

Hiện nay số cán bộ nầy còn rất đông ở Đức và vẫn tiếp tục điều khiển toàn bộ sinh hoạt của cộng đồng VN ở Đông Đức và một phần ở Tây Đức (những nơi có ngườøi VN tỵ nạn từ con đường Đông Aâu). Hiện nay phần nhiều các cán bộ nầy đã vào quốc tịch Đức. Nhưng họ là những ngườøi nòng cốt làm các “dịch vụ” thi hành chính sách của đảng CSVN để đưa người xâm nhập vào nước Đức nhằm đục khoét, trộâm cắp, buôn lậu, hôn thú giả, nhận con thật và con giả, đưa người vượt biên, buôn bán thuốc phiện, thuốc lá, làm Passport giả,...khai thác quỷ trợ cấp xã hội Đức, lừa bảo hiểm y tế Đức, lừa bảo hiểm tài sản, lừa quỹ thất nghiệp... Tất cả nguồn tiền nầy đều có đường dây chuyển vận bất hợp pháp ra khỏi nướùc Đức đem về Việt Nam. (Chúng tôi có đủ thông tin và các dữ kiện để điều tra rõ hơn). Càng ngày họ càng có nhiều kinh nghiệm để thực hiện tội phạm tinh vi hơn mà luật pháp và an ninh Đức không thể chạy theo kịp để ngăn chận. Cứ một người VN có con để được ở lại Đức là có nhà ở và mọi điều kiện sinh hoạt như một ngườøi Đứùc bình thườøng.

 

Trung bình một người được ở lại hợp pháp sẽ kéo theo 5 người khác vào tiếp, đồng thời cũng là cơ sở để các thành phần bất hợp pháp nương náu trong khi chờ “thủ tục hợp thức hóa” để vào trại tỵ nạn hoặc để làm ăn lậu thuế trong bóng tối.  Đã có sẵn hàng trăm trường hợp có thể chứng minh dễ dàng (nếu điều tra cẩn thận sẽ ra hàng ngàn vụ hôn thú, con thiệt con giả). Một bà mẹ có con để ở lại Đức thì được hưởng nhà ở miễn phí, và quỹ xã hội Đức trợï cấp hàng tháng như sau: 300 Euro tiền xã hội, 350 Euro tiền mẹ, 150 Euro tiền con; trong khi đó họ còn thu tiền thuê chỗ ngủ từ 3 đến 5 người bất hợp pháp ở trong nhà của họ Khoảng 500 Euro/tháng nữa) chưa kể tiền giầy dép áo quần hàng năm.

 

Tất cả người Việt Nam Đông Aâu nầy đều rỉ tai nhau rằng nhờ tiếp nhận hàng trăm ngàn người tỵ nạn, nước Đức được Liên Hiệp Quốc trả tiền để nuôi. Nhờ vậy người Đức có thêm công ăn việc làm và nước Đức có nguồn thu nhập lớn!

 

Trên thực tế thì cộng đồng Việt Nam Đông Aâu tại Đức là một trong những nguồn ngoại tệ huyết mạch mà đảng CSVN cần để nắm quyền cai trị VN. Vì thế nhiều phụ nữ đã phải vội vàng ngủ với bất cứ ai trên đường đến nước Đức để “bau cái bầu;” khi vào tới Đức thì kịp thời làm thủ tục nhận con giả do các dịch vụ cộng sản chờ đợi cung cấp. Bao lâu chế độ CSVN còn tồn tại, bao lâu nước Đức còn im lặng, bấy lâu người Việt Nam vẫn len lõi vào nước Đức. Tình trạng nầy càng ngày càng gia tăng và không bao giờ kết thúc.

 

CSVN đã thiết lập hệ thống quy mô, tinh vi từ VN qua các nước Đông Aâu khắp bằng đường hàng không, đường thủy và đường bộ...đâu đâu cũng có trạm thông tin và tiếp tế giống như đườøng mòn Hồ Chí Minh mà họ đã xâm lăng vào miền nam Việt Nam từ 1964-1975. Cả một đườøng dây chằng chịt, một network tinh vi phức tạp mà CSVN đã có quá nhiều kinh nghiệm từ trong chiến tranh. Hiện nay người Lào và người Trung Quốc cũng nhờ con đường của Việt Nam để đến nước Đức.

 

Ngày nay, nếu CSVN muốn đưa vào nước Đức một tên sát thủ để thực hiện một vài vụ giết người chớp nhoáng tại Berlin; sau vài tiếng đồng hồ phạm pháp, hắn có thể ngồi uống rượu ở Balan, Tiệp Khắc và vài ngày sau hắn có thể nhảy đầm ở khách sạn 5 sao Hà Nội. Hoặc chúng bắt cóc một ngườøi Việt Nam ở Đứùc để đưa về VN cũng dễ dàng như vậy. Hầu hết các vụ án do ngườøi VN gây ra ở Đức đều không có nhân chứng. Vi nhân chứng rất sợ thân nhân của mình bị trả thù tại VN.

 

CSVN kiểm soát người của họ rất tinh vi. Họ có thể thủ tiêu những ai chống đối họ tại nước Đức nầy như bắt cóc đưa vào rừng chặt đầu, chôn sống. Sau khi bức tường Bá Linh sụp đỗ, 99% người Việt Nam tràn vào nước Đức xin tỵ nạn không vì lý do chính trị hay là kinh tế của cá nhân họ, mà đây là làn sóng làm ăn do đảng CSVN lãnh đạo từ sau 1975 đếùn nay. Tại Việt Nam, đảng CS áp dụng chính sách bất công, độc tài làm cho người dân của họ chán nản đến nỗi cần phải ra đi. Báo chí CSVN đã tuyên truyền rằng Tây Phương là thiên đường để kiếm tiền. Ví dụ báo Tiền  Phong, cơ quan trung ương Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, số 9/2001, trang 32, có tít lớn: “Phương Tây Thiếu Lao Động! Cơ Hội Dành Cho Việt Nam?...”(đính kèm tờ báo).

 

Theo đó, các thủ tục giấy tờ cho người Việt Nam ra khỏi nước đều nằm trong tay đảng CSVN. Họ thu tiền làm thủ tục cho người dân ra đi (6000-9000Usđôla/người), thu tiền làm ăn phạm pháp do dân của họ gởi về, thu tiền viện trợ của nước Đứùc để nhận lại một số người hầu làm bộ thực thi hiệp ước đã ký với nước Đức năm 1995. Vài tuần lễ sau đó, số ngườøi bị trục xuất lại có mặt tại Đức! Con số người Việt vào nước Đức hàng tháng đông hơn con số bị trục xuất trở về Việt Nam.

 

Bao lâu đảng CSVN còn nắm quyền lực, xã hội VN vẫn còn bất ổn, bất công; người dân phải tìm đường ra đi kiếm sống bất hợp pháp mà xã hội Đức phải tiếp tục gánh hậu quả nầy.

 

Hầu hết những người Việt Nam ra đi đều lún sâu vào cơn mê kiếm tiền và hưởng lạc. Cuộc sống của họ không khác gì những kẻ đói đang được ăn ngon, kẻ nghiện đang hút cái xái cuối cùng để còn sức đi tìm điếu khác tốt hơn. Họ bất chấp tình chồng nghĩa vợ, bất cần mái ấm gia đình. Họ sẵn sàng bán rẻ nhân phẩm để được ở lại Đức. Có tiền là có thế lực, có phương tiện đưa thêm bà con qua Đức để nối dài vây cánh. Ở Việt Nam nay có câu “Tiền là tiên là phật, là sức bật, là ấm cật.”

 

Những đồng tiền của họ gởi về Việt Nam nuôi đảng Cộng Sản và làm hư hỏng những ngườøi thân của họ tại quê nhà, lại càng xúi giục giấc mộng:  “đi lượm mưa vàng.” Nhiều làng, nhiều xã tại miền Trung Việt Nam đã đưa hàng trăm người ra đi. Có những gia đình ra đi gần hết. Khi qua đây, họ khai tên tuổi và địa chỉ giả nên không còn mối liên hệ vợ chồng, cha con trên pháp lý nữa. Một ngườøi con gái “bau một cái bầu” (bau=build) để được ở lại Đức (bau là tiếng lóngï). Chúng tôi biết một số người đàn ông (dĩ nhiên  là cán bộ cộng sản) đang “xin tỵ nạn” tại đức, len lõi theo các phụ nữ Việt Nam để gạ gẫm giúp họ “bau cái bầu” và giới thiệu “dịch vụ nhận con”. Sau khi nhờ cái bầu để ổn định bản thân, cô ta cưới cha mình để ông ta cũng được ở lại Đức (chuyện nầy có thật). Cũng như chị em ruột đã cưới nhau, vì giấy khai sinh cỡ nào cũng được nhà nước cộng sản Việt Nam cung cấp đầy đủ hết! Đàn bà “bau cai bầu”, đàn ông  “bau hôn thú” hoặc “bau chính trị” để được ở lại Đức.

 

Cứ một người Việt Nam được ở lại nước Đức có “cẩu” thêm bà con thân  quyến từ Việt Nam qua để tạo vây cánh làm ăn. Nếu không ngăn chận được làn sóng tội phạm nầy, chắc chắn hàng triệu gia đình Việt Nam sẽ tiếp tục bị tan vỡ thê thảm. Ngày nay luân thường đạo lý trong chế động cộng sản chỉ là xảo ngôn đầu môi chót lưỡi mà thôi. Đồng tiền vào trong tay kẻ phạm pháp là phương tiện tốt nhất để gây thêm phạm pháp. Tại Việt Nam sự phạm pháp không còn là cá nhân nữa mà cả một chế độ đảng trị, một cơ cấu chính quyền. Bất cứ cá nhân nào có tín ngưỡng đúng đắn, có đời sống đạo đức đều trở nên lạc lỏng giữa xã hội Việt Nam.

 

Hầu hết nạn nhân của chế độ cộng sản không nhận thức được mình là nạn nhân của chế độ đó. Vì những “nạn nhân” nầy vốn sinh ra bởi dòng dõi tội phạm trong chế độ CSVN. Những đứa trẻ sinh ra trong đường dây làm ăn phạm pháp của cha mẹ chúng; cho dù chúng có quốc tịch Đức, cũng sẽ khó có cơ hội trưởng thành trong tình thương và đạo đức. Khi lớn lên, chúng sẽ gặp nhiều bất ổn, nhưng cũng sẽ không biết mình là nạn nhân của ai!

 

Người Việt Nam dưới chế độ cộng sản đã và đang phạm pháp một cách tự nhiên mà không mấy ai cảm thấy xấu hổ, vì lương tâm của họ được hình thành bởi chủ nghĩa hận thù và đấu tranh bạo lực từ giai cấp nghèo chống lại giai cấp giầu. Cho đến khi họ bị lâm vào con đường cùng, hoặc bị tù tội, ấy là cơ hội để Tin Lành cứu rỗi đến gần họ. Trên thực tế, Chúa đã cứu một số người Việt Nam và thay đổi họ từ tối tăm đến sáng láng rất đáng ngạc nhiên đúng nhưKinh Thánh dạy: “Vả luật pháp đã xen vào, hầu cho tội lỗi gia thêm, nhưng nơi nào tội lỗi đã gia thêm, thì ân điển lại càng dư dật hơn nữa, hầu cho tội lỗi đã cai trị làm nên sự chết thể nào, thì ân điển cai trị bởi sự công bình thế ấy, đặng ban cho sự sống đời đời bởi Đức Chúa Jesus Christ, là Chúa chúng ta.” (Roma  5:20-21). 

 

Bởi thế, những khi gặp khó khăn, nguy hiểm, tù tội... là  cơ hội tốt để tội nhân tiếp nhận tình yêu sâu xa của Chúa, hầu cho họ tìm thấy niềm tin chân chính trong Chúa. Những người nầy đượïc Chúa Thánh Linh đụng chạm khiến họ biết ăn năn sâu xa và bắt đầu được thay đổi. Nếu họ không được Chúa thay đổi, thì những năm tù tội chỉ làm dày thêm kinh nghiệm phạm pháp của họ cho tới lúc lâm chung trong tăm tối.  Đây là một thực tế mà chúng tôi đã mục kích rõ ràng tại Việt Nam cũng như tại nước Đức.

 

Những người Việt Nam vốn sinh ra và lớn lên dưới chế độ cộng sản độc tài nghèo khó, nay đã trở thành người phạm pháp chuyên nghiệp và được hưởng một chế độ lao tù mà trong đó các điều kiện vật chất được cung ứng đầy đủ như ở nước Đức; thay vì phải chịu đựng sự trừng phạt, họ cảm thấy đó là điều kiện tốt để nghỉ ngơi yên ổn. Chính những người nầy cần sự đánh thức lương tâm. Đức Chúa trời luôn luôn ban cho chúng ta cơ hội cáo trách về tội lỗi của mình; nhờ đó chúng ta mới có thể ăn năn và tiếp nhận ơn tha thứ của Ngài để được tái sanh trong năng quyền mầu nhiệm của Ngài.

 

Tôi tin rằng Chúa sẽ ban phước cho nước Đức nhiều hơn nữa khi nước Đức tạo cơ hội quý báu để giúp những người Việt Nam phạm pháp nầy ăn năn tội lỗi của mình và tiếp nhận ơn tha thứ, ơn cứu rỗi của Ngài.

 

Khi một tù nhân ăn năn thay đổi để trở về trong tình yêu của Chúa, anh ta sẽ biết ơn nước Đức và hy vọng tương lai của anh ta ở Việt Nam  sẽ tốt đẹp hơn. Nhiều người cộng sản vốn kỳ thị đức tin của Chúa sẽ nhìn thấy quyền phép và tình yêu của đức Chúa Trời thể hiện trên những người phạp pháp nầy, và họ sẽ tin Chúa và cám ơn nước Đức. Điều nầy mới nghe có vẽ rất lạ và khó xẩy ra, nhưng Chúa Jesus Christ đã phán rằng : “cái gì loài người không làm được thì Đức Chúa Trời vẫn làm được.” Lu-ca 18:27)

   

 

 

 

 

Trở lại trang chính


[Trang nhà] [Về MLNQ] [Luật NQ] [Tài liệu] [Báo cáo NQ] [Giải NQVN ] [Diễn đàn] [Liên kết]