SỢI XÍCH SẮT NĂM VÒNG

 

     

 NHẬN ĐỊNH CHUNG   

  

     So với các văn kiện về tôn giáo trước đây[1], Pháp lệnh (dự thảo 19) của Đảng Cộng sản VN mở đầu rất là mị dân: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc…”. Pháp lệnh đã phơi bày thói giả nhân giả nghĩa thường bị dân gian mai mỉa: “Giết không được thì tha làm phúc”! Nhưng ngay lập tức, ĐCS đã nối kết cái chân lý mà nó nay bắt buộc phải thừa nhận này với “quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”!? Một sự kết hôn gượng ép hay một sự kết nối phi lý giữa hai điều đối nghịch mâu thuẫn!

      Sự đối nghịch tận căn giữa chủ nghĩa xã hội mà Đảng chủ trương và mọi tôn giáo chân chính đã là sự kiện quá hiển nhiên trong quá khứ khi mà cái chủ nghĩa ấy trong lý thuyết chỉ là những giáo điều duy vật vô thần, lên án tôn giáo là phản động, phản tiến bộ, tiếp tay duy trì và củng cố tình trạng bị đàn áp, bóc lột, và tha hóa của đại đa số dân nghèo; còn trong thực hành áp dụng thì đó là cả một lịch sử đàn áp sắt máu kiểu Staline nhằm xóa sạch tôn giáo ra khỏi đời sống của người dân. Nhưng sự mâu thuẫn trong căn bản giữa chủ nghĩa xã hội và tôn giáo vẫn không kém hiển nhiên hiện nay, dù nó đã được ĐCS cắt bỏ ở chỗ này, thêm thóc ở chỗ nọ, xào nấu lại ở chỗ kia, hay nói cho văn hoa là "hiện đại hóa", để mang một bộ mặt có vẻ dễ chịu và thức thời hơn. Chủ nghĩa xã hội kiểu mới của Đảng không nhằm lên án hay xoá sổ tôn giáo (vừa không thể thành công vừa phí sức vô ích) nhưngnhằm quản lý, tổ chức,  lãnh đạo tôn giáo, biến tôn giáo từ những lực lượng tinh thần có sức cải hóa và siêu thăng phẩm giá hiện thế của con người thành những tổ chức nếu không tích cực phục vụ cái thể chế độc tài, toàn trị, phi nhân và tha hóa của Đảng thì ít ra cũng ngoan ngoãn để yên cho Đảng duy trì và bành trướng cái thể chế khốn nạn ấy. Nói cách khác cái chủ nghĩa xã hội kiểu mới của ĐCSVN trong lý thuyết và trong thực hành vẫn là vô thần, vẫn là duy vật bởi vì chỉ có quyền lực  tiền tài của Đảng mới là những thực tại duy nhất "hiện hữu" thực sự, mới là những giá trị đáng có nhất và phải có nhiều nhất. Còn Thiên Chúa, Ơn Cứu Độ, Phật, Niết Bàn, con người hình ảnh Thiên Chúa, con người "linh ư vạn vật", vv… tất cả đều được Đảng tìm cách tổ chức, quản lý, và lãnh đạo để hiện hữu được bao nhiêu là tuỳ vào giá trị hữu dụng cho quyền lực và tiền tài của Đảng. ĐCS để cho tôn giáo tồn tại bằng cách trói buộc và cưỡng ép tôn giáo vào việc cùng với Đảng xây dựng một thứ chủ nghĩa xã hội mà trong đó tín đồ các tôn giáo không phụng sự thần thánh và con người cho bằng phụng sự chính Đảng, quyền lực và tiền tài của Đảng, hay nói cách dễ mường tượng hơn, phụng sự cái trung ương gồm 150 uỷ viên, cái thân cụ thể và thường xuyên của Đảng, và cái bộ chính trị gồm 15 uỷ viên, đầu hay bộ óc của cái thân đó.      

     Trở lại với mấy lời mở đầu của dự thảo Pháp lệnh. Ngay sau câu nói xe dây tơ hồng đầy “phúc đức” trên, ĐCS ve vuốt thêm: “Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Rồi Đảng khẳng định ngay mục tiêu của Pháp lệnh: “Nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo… phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp….”. Thông thường, người ta chỉ đặt vấn đề đoàn kết dân tộc khi có kẻ thù: ngoại thù xâm lấn từ ngoài biên cương hay nội thù chia rẽ từ trong nước. Đất nước dân tộc ta hiện nay chẳng gặp thế lực ngoại quốc xâm lược nào (ngoại trừ ĐCS đàn anh Trung Quốc vốn chiếm đoạt của Tổ quốc gần 800 km2 trên đất và 10.000 km2 trên biển nhờ sự đồng lõa của những tên lãnh đạo bán nước trong ĐCSVN, và ngoại trừ những “thế lực thù địch” mà Đảng tự tạo ra vì có dụng ý hoặc do trí tưởng tượng bệnh hoạn). Vậy chỉ còn những mầm mống chia rẽ thôi! Nhưng chia rẽ giữa toàn dân với nhau hay chia rẽ giữa nhân dân với Đảng độc đoán, tham nhũng, bóc lột, bất tài, bất lương, chuyên gây hận thù và tạo chia rẽ? Câu trả lời đã quá rõ.

      ĐCSVN đang đứng trước một cơn khủng hoảng quyền lực trầm trọng, vì đồng bào các sắc tộc và các tôn giáo một mặt dần dần thấy Đảng lộ nguyên hình là một thế lực toàn trị độc tài, cai trị nhân dân và đất nước bằng bạo hành và dối trá, mặt khác dần dần đứng lên gỡ bỏ cái ách nặng nề gây cản trở cho sự phát triển chính mình và toàn thể đất nước dân tộc. Nhưng thay vì mời gọi sự ủng hộ của nhân dân bằng cách trả lại cho nhân dân các quyền tự do cơ bản, Đảng, với não trạng chuyên chế thâm căn, lại tìm cách dùng luật pháp để cưỡng bức và trói buộc các lực lượng trong nhân dân, đặc biệt các lực lượng tinh thần là tôn giáo.

     Trước đây, những văn kiện pháp lý về tôn giáo không chi tiết, chặt chẽ bao nhiêu, bởi lẽ quyền lực ĐCS lúc ấy còn mạnh, đủ sức biện minh cho những chỗ mơ hồ hay mâu thuẫn trong chính sách; vả lại kinh nghiệm đối xử với tôn giáo chưa có nhiều. Nay Đảng thấy quyền lực mình đang bước vào giai đoạn rệu rã, cần bang giao với nhiều nước tự do dân chủ nên hành sự không thể mặc sức vi pháp, vi hiến, không thể chỉ biết dùng luật rừng của bạo lực; đàng khác Đảng cũng đã thâm nhập hiểu rõ các tôn giáo mà tìm được những cách đối phó mới có hiệu quả hơn. Vì thế mà Đảng đang tiến hành làm Pháp lệnh (PL) và Nghị định (NĐ) Tôn Giáo (chi tiết hóa Pháp lệnh này) mà tính cách hệ thống, chặt chẽ, bao trùm của chúng thật đáng sợ.[2] Theo chúng tôi, đó là sợi xích sắt năm vòng nhằm siết chặt (kiểm soát, trấn áp, hạn chế) tôn giáo hơn bao giờ hết. Năm vòng siết chặt này nhắm vào năm điểm căn bản của một tổ chức  tôn giáo là cương vị, nhân sự, hoạt động, tài sản và các mối liên lạc bên trong và bên ngoài. Chúng tôi xin phân tích và nhận định từng điểm sau đây.

 

PHÂN TÍCH 

 

            I- Siết chặt cương vị của tôn giáo

     Cương vị tôn giáo ở đây chính là vấn đề pháp nhân. Lần đầu tiên, các tôn giáo được pháp luật của ĐCS coi như một pháp nhân[3]: “Tổ chức tôn giáo [=giáo hội, chúng tôi chú thích] là pháp nhân đại diện cho một cộng đồng người cùng chung một tôn giáo, có tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo, cơ cấu tổ chức, hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận” (PL điều 3 khoản 1).

            · Ở các nước dân chủ văn minh, các tôn giáo đã tồn tại lâu đời trên lãnh thổ được đương nhiên công nhận, còn các tôn giáo mới thành lập hay mới du nhập thì cần phải được nhà nước công nhận sau một số thủ tục nào đó, thông thường là dễ dàng.

      Trong thực tế, ở Việt Nam hiện thời, ngoài Giáo hội Công giáo có lẽ được đương nhiên coi như pháp nhân (?), mới chỉ có một số tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân sau nhiều thủ tục và điều kiện (Quyết định số 83/BT ngày 29/12/1994 cho phép thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Quyết định số 51/QĐ-TGCP ngày 29/7/1995 công nhận tư cách pháp nhân của Hội thánh Cao đài Tiên Thiên, Quyết định số 4039/QĐ-TGCP ngày 2/8/1996 công nhận tư cách pháp nhân của Hội thánh Cao đài Minh Chân đạo Hậu Giang, Quyết định số 10/QĐ-TGCP ngày 9/5/1997 công nhận tư cách pháp nhân tổ chức Giáo hội Đại đạo Tam kỳ phổ độ Tây Ninh...) và gần đây nhất là Quyết định công nhận tư cách pháp nhân của Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam)[4]. Đang khi đó thì Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất vốn có hàng ngàn năm và Giáo hội Phật giáo Hòa hảo thuần túy (của cụ Lê Quang Liêm) được thành lập từ 1945 cũng như một số hệ phái Tin lành bị CS đặt ra ngoài vòng pháp luật và bách hại dữ dội.

     Nay thì PL điều 15 và NĐ điều 3 có đưa ra các quy định cho những giáo hội nào đó muốn thành lập và muốn được công nhận tư cách Pháp nhân, nhưng các quy định ấy vô cùng nhiêu khê và mang tính can thiệp và lũng đoạn trắng trợn. PL đ. 15 nói: “Điều kiện để xem xét công nhận tổ chức tôn giáo gồm: a) Có đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, hiến chương hoặc điều lệ phù hợp với pháp luật; b) Danh sách dự kiến nhân sự lãnh đạo tổ chức tôn giáo đó được Trưởng ban Ban Tôn giáo của Chính phủ hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định[5]. NĐ đ. 3 trước hết đòi buộc thành lập Ban vận động. Ban này, Nhà nước ấn định số lượng và tư cách thành viên (k. 1), ra quyết định thành lập, thông qua quy chế hoạt động, ấn định các trách nhiệm (k. 2) và cho tổ chức Đại hội thành lập. Giáo hội dự định thành lập phải được Ban Tôn giáo chính phủ chấp thuận nhân sự lãnh đạo, hiến chương hay điều lệ (k. 3). Rồi tổ chức cơ sở tôn giáo (tức các đơn vị trực thuộc giáo hội) hoạt động tại tỉnh nào thì lại phải có phép của Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh.

            · Cũng tại các nước dân chủ văn minh, một khi giáo hội xét chung được công nhận (như pháp nhân lớn), thì các tổ chức, đoàn thể thuộc cơ cấu của giáo hội này (vốn có hoạt động riêng, tài sản riêng, quan hệ riêng) liền được công nhận theo hay dễ dàng được công nhận tiếp (như những pháp nhân nhỏ)[6].

     Thế nhưng ở CHXHCN Việt Nam thì chẳng giống vậy. Thí dụ trong Giáo hội Công giáo, các tổ chức điều hành như hội đồng giám mục, hội đồng linh mục, hội đồng giáo xứ... và các tổ chức sinh hoạt như các giáo phận, giáo xứ, các dòng tu nam nữ, hội đoàn tông đồ... từ lâu không đương nhiên được có tư cách pháp nhân[7] (giả như có xin công nhận cũng chẳng được, mặc dù theo điều kiện trở thành pháp nhân trong Bộ Luật dân sự thì tôn giáo có rất nhiều tổ chức thành viên đủ khả năng). Mà tư cách ấy là cơ sở nền tảng cho việc giải quyết nhiều vấn đề, đặc biệt vấn đề hành chánh và vấn đề tài sản Giáo hội lâu nay gặp nhiều trắc trở, vì chỉ tổ chức được công nhận là pháp nhân mới có quyền quản lý, sở hữu tài sản dưới tên pháp nhân. Ví dụ: do giáo xứ không có tư cách pháp nhân, nhiều linh mục chánh xứ mua nhà đất cho giáo xứ hay đăng ký tài sản giáo xứ phải đứng tên mình, nên khi vị này qua đời, thì con cháu đòi quyền thừa kế. Ngoài rắc rối pháp lý này, còn nhiều rắc rối liên quan tới các thuộc tính của quyền sở hữu như quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt (xin xem dưới).

    Đã không công nhận các “tổ chức cơ sở tôn giáo” này như những pháp nhân, PL vẫn bày ra nhiều quy định hết sức khắt khe, buộc các tổ chức cơ sở đó phải theo nếu muốn được phép hoạt động (như sẽ thấy sau). Ngoài việc đặt ra cái khung pháp lý, CS còn qui định luôn cá nhân phải làm gì, được làm gì trong cái khung này. Phải chăng đây là ý đồ gây cản trở, nô lệ hóa, công cụ hóa toàn thể tôn giáo, toàn thể giáo hội?

            II- Siết chặt nhân sự của tôn giáo

      PL đ. 2 xác định nhân sự của tôn giáo có 4 hạng: tín đồ, chức việc, nhà tu hành, chức sắc. Chẳng một ai bị bỏ sót cả!

            a- Trước hết, các tín đồ nói chung đều phải ghi rõ tôn giáo trong Chứng minh nhân dân (đại đa số các nước trên thế giới không có lệ này) và đôi khi trong nhiều giấy tờ khác nữa. Điều này đã và đang gây ra lắm sự kỳ thị không thể chối cãi. Rõ rệt nhất là không một tín đồ của đạo nào giữ được những chức vụ lãnh đạo cao cấp trong bộ máy Nhà nước, công an, quân đội, học đường, công ty xí nghiệp quốc doanh... Có nguồn tin cho rằng kể từ niên khóa 2003-2004, mọi hiệu trưởng của mọi trường thuộc mọi cấp đều phải là đảng viên! Mọi tín đồ bình thường đúng là công dân hạng hai, bị hạn chế ngay cả trong việc đời của họ là xây dựng quốc gia đất nước, đang khi Hiến pháp nói rất ngon lành: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” (đ. 52), “Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội” (đ. 53). Chính vì thiếu những tín đồ trong guồng máy quốc gia nên dối trá, chèn ép, vô lương tâm, vô trách nhiệm tha hồ hoành hành trong mọi lãnh vực, khiến vô số vấn đề xã hội nhức nhối chẳng bao giờ giải quyết nổi. Đúng như thư các GMVN gởi Quốc hội tháng 10-2002: “Chân lý căn bản trong quan hệ giữa người với người là mọi người đều bình đẳng về nhân phẩm. Chân lý này đòi hỏi phải gạt bỏ mọi kỳ thị và phân biệt đối xử, phải xóa đi những hình thức chuyên chế, phải loại trừ mọi gian dối xảo trá ngày nay đang tràn lan trong mọi lãnh vực của cuộc sống con người và xã hội

            b- Chức việc (tín đồ có tham gia công việc quản lý của tổ chức tôn giáo, PL đ. 3 k. 5) trong Công giáo là các thành viên hội đồng giáo xứ, hội đồng mục vụ, thành phần lãnh đạo các hội đoàn đạo đức hay tông đồ... Họ là những giáo dân bình thường, có vai vế chút đỉnh, vì tham gia cộng tác với hàng giáo sĩ, với linh mục quản xứ, nhưng ngay bản thân họ cũng đã phải được sự công nhận của chính quyền. Đúng là một sự xen mình quá sâu của ĐCS.

     Quả thế, NĐ đ. 21 nói: “1- Người do tổ chức tôn giáo hoặc tín đồ bầu ra để hoạt động tôn giáo trong phạm vi địa bàn nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Ban Tôn giáo Chính phủ công nhận... trong phạm vi địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Chủ tịch UBND cấp tỉnh công nhận... trong phạm vi địa bàn quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh do Chủ tịch UBND cấp huyện công nhận... trong phạm vi địa bàn xã, phường, thị trấn do Chủ tịch UBND cấp xã công nhận. 2. Tổ chức tôn giáo, tổ chức cơ sở tôn giáo có hồ sơ gửi cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hồ sơ gồm có: a. Văn bản đề nghị công nhận trong đó có ghi rõ họ tên, phẩm trật, chức vụ tôn giáo của người được đề nghị công nhận; b. Lý lịch có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú; c. Văn bản tóm tắt quá trình hoạt động tôn giáo của người đó; d. Lý do, căn cứ (biên bản cuộc bầu...) của việc đề nghị công nhận”.

            c- Về nhà tu hành (giới tu sĩ), NĐ đòi buộc người muốn đi tu trước hết phải có văn bản gửi UBND cấp xã nơi thường trú để thông báo việc này, trong đó ghi rõ lý do vào tu, sự hiểu biết về tôn giáo mình chọn. Rồi phải được UBND xã xác nhận là người gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân đã, mới được khăn gói lên đường (NĐ đ. 9, k. 1-2). Tại giáo phận Huế, các ứng sinh vào đại chủng viện, ngoài hai đơn xin nhập ĐCV gởi Đức TGM và ban giám đốc ĐCV, còn phải viết đơn xin phép gởi UB Nhân dân tỉnh và Ban Tôn giáo tỉnh, trong đó có câu: “Tôi cam kết sẽ nỗ lực... chấp hành luật pháp của Nhà nước, cũng như thực hiện mọi quyền lợi và nghĩa vụ của công dân...”. Rồi có tên trong danh sách nhà dòng không đủ, tu sĩ còn “vinh dự” có tên trong danh sách đăng ký tại cơ quan Nhà nước kèm theo lý lịch tự thuật và ảnh (NĐ đ. 6 k. 2).

      Trở thành tu sĩ, muốn hoạt động thì “phải được cấp giấy chứng nhận nhà tu hành để thực hiện hoạt động chức vụ, chức trách tôn giáo trong phạm vi trách nhiệm được phân bổ” (PL đ. 13 k. 1+2). Mà “trình tự, thủ tục và thẩm quyền cấp giấy chứng nhận nhà tu hành... do Chính phủ quy định” (PL đ. 30). (Thủ tục này cũng liên hệ và đặc biệt liên hệ tới các chức sắc, nên chúng tôi sẽ nói rõ ở dưới).

      Nếu vị tu sĩ này được bầu hay tái bầu làm bề trên dòng thì chỉ được nhận chức vụ này “sau khi danh sách dự kiến nhân sự hoặc văn bản đề nghị phục hồi chức vụ cho chức sắc tôn giáo của giáo hội được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận” (nếu dòng có mặt nhiều tỉnh) hay “được  Chủ tịch UBND tỉnh chấp thuận” (nếu dòng chỉ có mặt trên một tỉnh). Vị bề trên này muốn hoạt động lại còn phải chờ “cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận bằng văn bản” đã (PL đ. 29 k. 1-2 và NĐ đ. 8). Vậy là các bề trên dòng từ nay có vinh dự được nhà nước “quan tâm” chuẩn nhận chức vụ và theo dõi hoạt động ngang bằng với các giám mục giáo phận đó!

      Việc bổ nhiệm, thuyên chuyển tu sĩ “trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải được sự chấp thuận của Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ... Bổ nhiệm, thuyên chuyển ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ phải được sự chấp thuận của Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố nơi đến” (Điều 29, k. 3). Chẳng hề có chuyện đăng ký hộ khẩu đơn thuần!

            d- Chức sắc, tức “nhà tu hành có chức vụ quản lý (chức) và phẩm sắc, tước hiệu (sắc) trong giáo hội” (định nghĩa của PL đ. 3 k. 7), ở đây có thể hiểu là linh mục cai quản giáo xứ và giám mục cai quản giáo phận (trong Công giáo).

     Trước hết, để lên được chức sắc, nghĩa là được phong chức linh mục hay giám mục, thì điều đầu tiên là “danh sách dự kiến nhân sự” cần tấn phong phải “được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận” hay “được Chủ tịch UBND tỉnh chấp thuận” tùy phạm vi hoạt động của chức sắc. (PL đ. 29 k. 1-2). Hồ sơ xin phong chức này được NĐ đ. 19 chỉ vẽ rất chi tiết, rất tận tình, các Giáo hội mặc sức mà làm! Việc CS giành lấy quyết định tối hậu này đã và đang có nguy cơ tạo ra một hàng lãnh đạo “tốt đời đẹp đạo”, theo nghĩa ngoan ngoãn và thỏa hiệp với nhà nước!

      Thành chức sắc rồi, còn “phải được cấp giấy chứng nhận chức sắc để thực hiện hoạt động chức vụ, chức trách tôn giáo trong phạm vi trách nhiệm được phân bổ” (PL đ. 13 khoản 1 và 2). Mà “trình tự, thủ tục và thẩm quyền cấp giấy chứng nhận chức sắc... do Chính phủ quy định” (PL đ. 30). NĐ đ. 22 k. 2 cho biết thêm nội dung giấy chứng nhận hoạt động tôn giáo phải có đủ “họ tên, địa chỉ thường trú, chức vụ tôn giáo, phạm vi hoạt động tôn giáo của người được cấp giấy chứng nhận; ngày, tháng, năm cấp giấy chứng nhận; có chữ ký, đóng dấu của tổ chức tôn giáo có thẩm quyền; chữ ký chứng thực của cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo cấp tương đương”. Đây là một sáng kiến hết sức quái đản của ĐCS (vốn cũng liên hệ tới các tu sĩ hoạt động, xin xem trên), khiến Đức TGM Sàigòn phải kêu trời: “Chúng tôi đồng ý với nhiều người cho rằng Điều 24 dự thảo Pháp lệnh (lần thứ 20) biểu hiện ý muốn can thiệp quá sâu vào nội bộ tôn giáo, khi buộc các chức sắc tôn giáo, tùy theo cấp bậc, phải được Chính quyền trung ương hay địa phương chấp thuận và công nhận bằng văn bản mới được hoạt động. Điều này vừa không thực tế, vừa làm cho các chức sắc tôn giáo quá lệ thuộc vào chính quyền, dễ sinh ra phiền toái và tiêu cực”. Đảng thẳng thừng tuyên bố lý do của ý đồ vô tiền khoáng hậu này: “Thông qua việc ban hành giấy chứng nhận chức sắc, nhà tu hành tôn giáo, chúng ta còn có thể xử lý các trường hợp mạo danh chức sắc, nhà tu hành tôn giáo, các trường hợp “phong chui”, “tu chui”, những trường hợp chưa đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận nhưng vẫn thực hiện hoạt động truyền đạo” (Báo cáo tổng thuật của Ban Tôn giáo, mục II số 4). Mục tôn giáo trên CMND đã là kiểu kỳ thị man rợ so với thế giới dân chủ văn minh, không thể chấp nhận, nay lại thêm cái “chứng minh chức sắc, chứng minh tu sĩ” quái gở này. Đảng chỉ thiếu điều ngồi vào tòa cáo giải để nghe tâm tư bí mật của con người mà “quản lý” cho trọn vẹn! Thương Ưởng, kẻ đẻ ra chế độ hộ khẩu tàn độc bên Tàu mà cuối đời bị dân chúng phanh thây, phen này hẳn phải bái ĐCSVN làm sư phụ!

      Ở Việt Nam, năm 2002, các nghệ sĩ đã mạnh mẽ phản đối dự luật cấp giấy hành nghề biểu diễn đầy tính “cửa quyền” và họ đã thành công. Rõ ràng việc cấp giấy hành nghề truyền đạo là một âm mưu nham hiểm. Nó muốn củng cố đến tột cùng cơ chế xin-cho và can thiệp trắng trợn chưa từng thấy vào nội bộ các giáo hội (như thư HĐGMVN gởi QH). ĐCS quả muốn biến mọi chức sắc tôn giáo trở thành cán bộ của mình.

      Ngoài những nghĩa vụ tôn giáo, chức sắc còn phải “động viên, hướng dẫn tín đồ chấp hành chính sách, pháp luật của nhà nước” (PL đ. 13 k. 2c) dù chính sách, pháp luật này có những điểm nghịch với đức tin tôn giáo đến đâu chăng nữa. Vậy là ngoài vai trò ngôn sứ cho Thiên Chúa hay cho lẽ phải, các chức sắc nay được thêm vai trò người phát ngôn, loa tuyên truyền cho Đảng. Đúng hơn, các chức sắc được kêu mời từ bỏ vai trò đại diện Thiên Chúa để đóng vai trò đại diện của đảng. Gương mẫu điển hình trong chuyện này là các thành viên UBĐKCG.

       Việc bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sắc “trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải được sự chấp thuận của Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Trường hợp bổ nhiệm, thuyên chuyển ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải được sự chấp thuận của Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố nơi đến” (PL đ. 29, k. 3).

       Tóm lại, nhất cử nhất động của mọi chức việc, tu sĩ, chức sắc tôn giáo đều phải xin phép, đều được theo dõi và hạn chế đến mức tối đa.

            III- Siết chặt hoạt động của tôn giáo

      Về hoạt động của tôn giáo, PL phân ra các loại: 1- Thành lập tôn giáo, giáo hội (đ. 15). 2- Hoạt động hội đoàn nhằm phục vụ lễ nghi, học tập giáo lý, đạo đức và các mục tiêu khác (đ. 16). 4- Tu hành (đ. 17). 5- Phong chức hoặc phục chức cho chức việc, tu sĩ, chức sắc lớn nhỏ (đ. 29). 6- Bổ nhiệm, thuyên chuyển chức việc, tu sĩ, chức sắc lớn nhỏ (đ. 29). 7- Đào tạo, bồi dưỡng tu sĩ, chức sắc (đ. 19). 8- Hội nghị thường kỳ và hội nghị bất thường (đ. 28). 9- Tĩnh tâm của linh mục, tu sĩ (đ. 28). 10- Hoạt động tôn giáo ngoài cơ sở tôn giáo (đ. 28). 11- Lễ hội quy mô lớn toàn quốc (đ. 28). 12- Xuất bản, phát hành kinh sách và xuất bản văn hóa phẩm tôn giáo (đ. 20). 13- Kinh doanh xuất nhập khẩu văn hóa phẩm tôn giáo (đ. 20). 14- Sản xuất đồ dùng việc đạo (đ. 20). 15- Mở trường, lớp nhà trẻ, mẫu giáo, nuôi dạy trẻ em (đ. 21). 16- Hoạt động từ thiện nhân đạo, y tế, thể dục thể thao, văn hóa xã hội (đ. 22). 17- Tu bổ, sửa chữa, xây dựng cơ sở tôn giáo (đ. 23). 18- Tổ chức quyên góp, tiếp nhận viện trợ nước ngoài.

       Đúng là sau bao năm dài, ĐCS đã nắm vững hết mọi hình thức hoạt động của tôn giáo. Đó cũng là nhờ ban tôn giáo, viện nghiên cứu tôn giáo, hội đồng tư vấn tôn giáo và đặc biệt đám bồi bút nội thù trong Ủy ban Đoàn kết. Các tổ chức này chẳng bao giờ nhắm mục đích tạo sự cảm thông hiểu biết giữa giáo hội với nhà nước mà chỉ để dò xét tôn giáo thôi.

            1- Về chuyện thành lập tôn giáo, giáo hội rồi được công nhận để hoạt động, chúng ta đã nói đến trên kia, phần cương vị của tôn giáo. NĐ đ. 3 + 4 quy định rất chi tiết việc này.

            2- Về hoạt động hội đoàn nhằm phục vụ lễ nghi, học tập giáo lý, đạo đức tôn giáo trong các hội đoàn như hội dâng hoa, hội giúp lễ, hội kèn trống... thì trước khi các hội đoàn này hoạt động, Giáo hội phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về tên hội đoàn, người đứng đầu hội đoàn, nội dung hoạt động, phạm vi hoạt động. Chưa đăng ký thì cứ nằm chờ đó đã (NĐ đ. 5 k. 1+2).

      Những “loại hội đoàn phức tạp, có cơ cấu tổ chức, có quy mô mang tính tranh thủ quần chúng” “loại hội đoàn tôn giáo lập ra nhằm thực hiện ngoài các mục đích tôn giáo đơn thuần còn có những mục đích khác có liên quan đến các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục và các vấn đề khác của xã hội như tương trợ, giúp đỡ các tín đồ trong việc học văn hóa, xây dựng, cải thiện đời sống kinh tế, trợ giúp về các kiến thức xã hội, nghề nghiệp, trợ giúp về y tế... như: sinh viên công giáo, hiệp hội giáo chức công giáo, thanh lao công... của Công giáo và các tổ chức tương tự của các tôn giáo khác[8] thì theo quy định của pháp luật về lập hội (NĐ đ. 5 k. 3)

      Trong thực tế, chưa có một hội đoàn nào kiểu này được chính thức hoạt động kể từ 1975 tới nay. Gia đình Phan Sinh, Đạo binh Đức Mẹ thường phải sinh hoạt chui... Các đoàn thể nhằm giáo dục giới trẻ Công giáo đừng mong được công nhận, vì nhà nước chỉ muốn cho thanh thiếu niên vào đoàn Thanh niên CS thôi, để được giáo dục về “lý tưởng xã hội chủ nghĩa” (Hiến pháp đ. 36 và 66). Mới đây, tại Đà Nẵng, một huynh trưởng hội Hướng đạo Công giáo (hiện đang bành trướng chui) đã được gợi ý rằng: “Nhà nước sẽ cho hội hoạt động công khai nếu chịu xóa bỏ yếu tố tôn giáo và khai tử một phần điều luật thứ hai của hội”[9]. Tương lai các hội đoàn khác cho người lớn cũng chẳng sáng sủa gì. ĐCS sợ gặp lại những hoạt động mang tính khuynh đảo chính trị của Thanh Lao Công Pháp và Thanh Lao Công Việt tại miền Nam Việt Nam trước 1975 đã hỗ trợ chính Đảng?[10]

            3- Đã từ lâu, các chủng viện, nơi đào tạo những nhà lãnh đạo tinh thần mà ĐCS buộc phải cho lập; tiếp đến các dòng tu, với những lối chiêu sinh khôn khéo, huấn luyện linh động, hoạt động đa dạng và ảnh hưởng rộng sâu; rồi các tu hội đời không cơ sở, không tu phục, lỏng lẻo tổ chức, tất cả đã và đang là mối nhức đầu cho Đảng. Thành thử Đảng phen này quyết kiểm soát và lèo lái cho bằng được ba tổ chức huấn luyện đó với rất nhiều điều khoản trong NĐ: bốn điều về đăng ký, tuyển sinh, bầu bề trên (đ. 6-9); bốn điều về trường lớp đào tạo, bồi dưỡng (đ. 10-13).

      Quá trình kiểm soát bắt đầu từ việc đăng ký, việc tổ chức đến việc sinh hoạt dòng tu chủng viện (đ. 6-9); từ tài chính, tài sản, đến nhân sự, quan hệ của chủng viện dòng tu (đ. 10); từ việc huấn luyện ngắn hạn đến huấn luyện dài hạn (đ. 10+11); từ tư cách bề dưới đến tư cách bề trên, từ hàng thụ huấn đến hàng giảng huấn (đ. 13); từ việc báo cáo kết quả học tập mỗi khóa, mỗi năm (đ. 13) đến việc ấp chứng chỉ, văn bằng (đ. 10+11)... Tất cả những điều này, bề trên dòng, giám mục giáo phận, thậm chí Tòa thánh cũng chẳng đòi quản lý cặn kẽ như vậy. ĐCS lấy quyền gì để tra hỏi lục vấn tất cả những điều nội bộ đó? Ấy là chưa kể nhà nước phải trực tiếp giáo dục tu sĩ thành công dân đích thực qua “môn Giáo dục (giáo dục chính trị, pháp luật, lịch sử dân tộc)”, một môn “phải được coi là chính khóa và do giáo viên ngành Giáo dục và Đào tạo, trực tiếp giúp đỡ giảng dạy” (NĐ đ. 13 k. 4). Quả là một sự thọc sâu cách trắng trợn, ngang nhiên. ĐCS làm như đó là những nơi đào tạo người của mình, trường huấn luyện cán bộ cho mình, chính mình làm bề trên nên có quyền kiểm soát tất cả mọi sự. Đó là chưa nói đến việc Đảng tìm cách gài nhiều mật báo viên ở những nơi đào tạo này. Con mắt của Đảng quả là muốn tinh tường hơn cả con mắt của bề trên trong Giáo hội; mối “quan tâm” của đảng quả là muốn bảo bọc hơn cả sự quan phòng của Thiên Chúa trên trời. Đang khi đó, xét như quyền lực thế tục thuộc loại xấu xa nhất, Đảng hoàn toàn bất biết kinh nghiệm tâm linh; với chủ trương vô thần tranh đấu, Đảng trước sau coi tôn giáo là kẻ thù cần phải tận diệt, không tận diệt được nhân sự cơ cấu thì phải tận diệt vai trò bản chất!

            4- Các hoạt động tôn giáo quy tụ nhiều người được phân thành loại phải đăng ký và loại phải xin phép. Loại trước là hội nghị thường kỳ và tĩnh tâm thường kỳ của linh mục, tu sĩ từ nhiều cơ sở (PL đ. 28 và NĐ đ. 16). Nhưng phải đăng ký vào ngày nhất định (15-10) cho cả năm sau với đầy đủ mọi chi tiết và có được tổ chức hay không các hoạt động đã đăng ký là chuyện khác nữa (NĐ đ. 16). Thực chất vẫn là việâc xin phép như loại sau mà thôi! Loại này là các hội nghị bất thường, các hoạt động tôn giáo ngoài cơ sở tôn giáo, các cuộc lễ quy mô lớn toàn quốc hay liên tỉnh (Pl đ. 28 & NĐ đ. 17+18) và phải xin phép từ UBND cấp xã đến Ban tôn giáo trung ương. Trong hai cuộc tọa đàm tại giáo phận Huế (10-1999 và 10-2000) về đạo hiếu và văn hóa công giáo Việt Nam, ngoài chuyện xin phép, nhân sự và nội dung thuyết trình đều đã phải được sở văn hóa (thực chất là công an văn hóa) duyệt trước. Trong các buổi tọa đàm, luôn có công an tôn giáo ngồi theo dõi diễn giả lẫn cử tọa. Đang khi đó các hoạt động bài tôn giáo tha hồ thực hiện khắp nơi: giáo khoa, học đường, cơ quan nhà nước, đội thiếu nhi, đoàn thanh niên, đảng cộng sản, công an quân đội, các phương tiện truyền thông....

            5- Về kinh sách, báo chí, văn hóa phẩm tôn giáo, NĐ đ. 14 tuyên bố rất ngon lành: “Nhà nước cho phép các tổ chức tôn giáo, tổ chức cơ sở tông giáo được in, xuất bản, phát hành các loại kinh sách và các xuất bản phẩm tôn giáo, kinh doanh xuất nhập khẩu văn hóa phẩm tôn giáo, sản xuất đồ dùng việc đạo”. Nhưng ngay lập tức, thòng lọng đã tròng vào: phải xin phép ban tôn giáo trung ương hay địa phương, và được hoặc không là tùy “lòng tốt” (đúng hơn là tuỳ cảm tính) của viên chức nhà nước và “sự biết điều” của Giáo hội.

      Trước đây, mỗi giáo phận có thể xin phép in, xuất bản, phát hành kinh sách với thẩm quyền địa phương và nhờ thế đôi khi gặp được chút lơi lỏng. Nay thì tất cả phải đăng ký với một nơi duy nhất: nhà xuất bản Tôn giáo trực thuộc ban Tôn giáo Chính phủ. Và chúng ta đều biết các ấn phẩm Công giáo chỉ đếm được trên đầu ngón tay trong 28 năm qua, “thời kỳ các tôn giáo tại Việt Nam phát triển chưa từng thấy” (lời ông trưởng ban Tôn giáo chính phủ). Một kinh nghiệm chua cay khác là bản tin Hiệp Thông của HĐGMVN: mỗi năm được ra 6 số, mỗi số 100 bản dày 50 trang A4 cho toàn thể Giáo hội Công giáo Việt Nam với gần 8 triệu người và chỉ phát hành sau khi được nhà nước kiểm soát nội dung chặt chẽ. Cuốn Giáo lý GH Công giáo bị ngang nhiên đục bỏ gần trăm chỗ. Cuốn “Giáo hội Công giáo Việt Nam Niên giám 2001” dự định xuất bản tháng 3-2002, đến nay vẫn phải sửa đi sửa lại cho hợp ý nhà nước. Thành thử nó có trung thực hay không là một vấn đề. Còn việc nhập khẩu các sách nghiên cứu Thánh Kinh, thần học để dùng trong các chủng viện và dòng tu thì chắc chắn các vị bề trên đều có câu trả lời hùng hồn.

            6- Hiến pháp điều 36 xác định: “Nhà nước phát triển các hình thức trường quốc lập, dân lập và các hình thức giáo dục khác”. Nghị quyết về công tác tôn giáo của trung ương Đảng khóa IX hứa hẹn “giải quyết việc tôn giáo tham gia thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động y tế, văn hóa, xã hội, giáo dục... của Nhà nước” (mục IV số 3). Pháp lệnh cũng tuyên bố dõng dạc: “Tổ chức tôn giáo, cá nhân tôn giáo được mở trường” (đ. 21) nhưng (chữ “nhưng” khốn nạn) quyền giáo dục của tôn giáo ở đây chỉ là “mở trường, lớp nhà trẻ, mẫu giáo, nuôi dạy trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn...” Một gáo nước lạnh tạt vào mặt các giáo hội!

      Đứng trước hiện tình giáo dục ngày càng tồi tệ về lượng và chất[11], trước nạn thiếu hụt giáo viên trường sở, nạn gian lận bài vở thi cử, nạn dạy thêm học thêm, nạn học tủ học vẹt học đối phó, nạn thu học phí, trường phí bừa bãi, nạn trường giả, lớp giả, điểm giả, bằng giả[12], trò quái gở “thi học sinh đẹp”, nay lại thêm nạn học thế thi thế thi kèm... khiến giới trẻ hụt kiến thức, mất chí hướng, thiếu lý tưởng, mờ mịt tương lai, suy đồi đạo đức, cá nhân và xã hội lâm cảnh tổng khủng hoảng nhân cách.... khiến báo chí phê bình dậy đất, nhân dân kêu trời không thấu... người ta những tưởng ĐCS sẽ ưu tư đến tiền đồ dân tộc, từ bỏ thành kiến mặc cảm đối với các giáo hội vốn đã chứng tỏ sở trường “thụ nhân” qua bao thời đại, mà để cho tôn giáo góp phần giáo dục giới trẻ cách tích cực hơn, sâu rộng hơn.... Thế nhưng vẫn là một đường lối giáo dục độc đoán và sai lầm, một chính sách ngu dân độc hại và tàn nhẫn, không nhằm mục đích nào khác hơn là tiêu diệt ở nơi giới trẻ, sinh viên, học sinh, sự thức tỉnh của lương tri, khả năng phản kháng vì lẽ phải. Các nhà lãnh đạo tôn giáo nhìn bao thế hệ trẻ hư hỏng mà đành bó tay bất lực, gồng mình chữa chạy giải độc cũng chẳng tới đâu!

            7- Việc tu bổ, sửa chữa, xây dựng cơ sở tôn giáo (PL đ. 23; NĐ đ. 15), nói cho ngay là từ khoảng 10 năm trở lại đây có phần dễ dàng. Nhiều thánh đường, chùa chiền khang trang, mỹ thuật, đồ sộ mọc lên. Nhiều vị chức sắc được cho đi nước ngoài quyên tiền về xây dựng nơi thờ phượng. Bộ mặt xã hội, nhưng nhất là bộ mặt chế độ đẹp thêm. Tôn giáo có vẻ được tự do. Nhà nước cũng thu về đô la không ít. Tuy nhiên, không phải mọi tôn giáo đều được phép xây nhà thờ. Nhiều Hội thánh Tin lành vẫn phải cử hành việc thờ phượng tại tư gia (có khi thuê phòng khách sạn), dĩ nhiên với không ít mối nguy bị giải tán, bắt bớ, phạt tiền. Điển hình gần đây là vụ nhà thờ Tin lành ở phường Bình An quận 2 Sài gòn. Phía Công giáo, việc xây nhà nguyện ở những vùng sâu vùng xa, cho đồng bào sắc tộc thiểu số từ 28 năm nay vẫn gặp rất nhiều khó khăn trắc trở. ĐCS đôi khi còn chơi trò ma giáo: xin xây nhà thờ thì bảo đợi có linh mục đã; xin phái linh mục đến thì bảo đợi có nhà thờ đã! Nhiều công trình tôn giáo như tòa giám mục, học viện, trung tâm mục vụ được phép xây với điều kiện, với trao đổi, thỏa hiệp chứ chẳng phải cho không! Ngoài ra, Đảng vẫn cấm các tôn giáo nhận chuyển quyền sử dụng đất hoặc cấm chuyển giao nhà đất của cá nhân thành cơ sở thờ tự của tôn giáo, thành thử tôn giáo khó mà xây dựng được những nơi thờ tự mới hoặc mở rộng những nơi thờ tự cũ (PL đ. 25, k.2).

            IV- Kiểm soát tài sản của tôn giáo

      Với PL và NĐ lần này, ĐCS quyết đi sâu vào nội tình sổ sách của các tôn giáo để dòm ngó, kiểm tra tài chính, tài sản. PL đ. 26 nói: “Kinh phí hoạt động của các giáo hội phải được sử dụng công khai đúng mục đích...”. Công khai là gì nếu không phải là khai báo với công quyền? Rồi điều 27 khẳng định: “Việc tổ chức quyên góp, tiếp nhận viện trợ nước ngoài của tổ chức tôn giáo, cá nhân tôn giáo do Chính phủ quy định”. Đang khi đó, Nghị định 26/CP đ. 8 chỉ nói “Tổ chức tôn giáo được tạo nguồn tài chính từ sự ủng hộ tự nguyện của cá nhân, tổ chức, từ những thu nhập hợp pháp khác. Việc tổ chức quyên góp phải được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cho phép”.

     Đi vào áp dụng chi tiết, điều 3 NĐ bắt khai báo tài sản, tài chính của tổ chức tôn giáo muốn được nhà nước cho phép thành lập và công nhận. Điều 6 thì bắt các dòng tu khai báo về cơ sở vật chất bao gồm tài sản tài chính khi muốn đăng ký hoạt động. Cuối cùng điều 10 buộc các giáo hội phải khai báo các nguồn thu, các khoản chi, khả năng tài chính, điều kiện cơ sở vật chất khi tiến hành thủ tục thành lập trường đào tạo chức sắc và tu sĩ (tức là chủng viện và học viện dòng tu bên Công giáo). Phải chăng ĐCS muốn tìm biết thấu đáo nồi cơm, tủ áo, két sắt, mảnh vườn của các giáo hội lớn bé đến đâu để giúp đỡ các pháp nhân này với danh nghĩa “cha mẹ của dân”, theo chức năng “quản lý nhà nước trên toàn xã hội”? Đảng nhân danh cái gì để đòi quyền nắm trọn sổ sách thu chi của các tập thể đó?

       Dĩ nhiên có thể chấp nhận việc khai báo bất động sản (đất đai, nhà cửa) để có “thẻ đỏ” chứng nhận quyền sở hữu. Nhưng trên thực tế, khi đan viện Thiên An, thánh địa La Vang, giáo xứ Loan Lý (ví dụ vậy) khai báo đầy đủ số đất đai sở hữu cách hợp pháp từ lâu thì đã được ĐCS công nhận như thế nào, phải chăng trọn vẹn? Người ta nhớ lại khoảng trước 1980, nhà nước đột nhiên ra luật buộc các tư nhân đăng ký số vàng mình đang có, gọi là “để bảo vệ quyền lợi sở hữu chủ”. Nhiều cá nhân và tập thể ngay tình khai báo và đã thấm thía cái biện pháp “bảo vệ quyền lợi” này. Tòa tổng giám mục Huế, do nghi ngờ ý đồ của Đảng, đã chỉ đăng ký một ít số vàng của mình, phần còn lại đem chôn giấu, khiến Đảng đâm nghi. Và lấy lý do không chấp hành pháp luật, công an đã đến lục soát Nhà Chung giáo phận, tịch thu hơn sáu chục lượng vàng. Người ta cũng không quên việc vô số tài sản của các tôn giáo đã bị Đảng trưng thu, tịch thu, buộc trao nhượng bất thỏa đáng sau 1954 và 1975, khiến cha Nguyễn Văn Lý, trong Lời Kêu gọi số 3 đã mạnh mẽ lên án: “Không một quyền lực nào trên trần gian hôm nay có quyền tước đoạt tài sản chính đáng của người khác, của tổ chức chính đáng khác, rồi tìm cách hoán chuyển một cách tinh vi các quyền lợi vào tay một thiểu số có chức có quyền cả...”. Thế nhưng lòng tham vô đáy của Đảng vẫn không dừng lại. Ở cái thời buổi kinh tế thị trường, đầu tư xây dựng ồ ạt này, Đảng lại ngang nhiên vặn vẹo pháp luật để cướp đất linh địa La vang, đan viện Thiên An, dòng Chúa Cứu Thế Huế, dòng Giuse Nha trang... đất đai của nhiều Hội thánh Tin lành tại Tây nguyên, Cần thơ, Sài gòn v.v...

     Ngoài ra, ĐCS còn cố tình làm khó tôn giáo khi để cho tài sản của các giáo hội ở vào tình trạng pháp luật không rõ ràng (các tổ chức trong giáo hội chẳng được công nhận như pháp nhân như đã nói trên, hay những quy định về quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt sở hữu chung trong Luật Dân sự điều 235-237 chẳng hề phù hợp với những đặc tính các tài sản thuộc tôn giáo), khiến các giáo hội không thể sử dụng quyền sở hữu của mình.

            V- Kiểm soát liên lạc của tôn giáo

     Đức TGM Nguyễn Kim Điền, trong Thư chung gởi TGP Huế ngày 17-10-1984 (nói đến đợt “làm việc” 120 ngày của ngài từ 5-4-1984), có kể rằng: “Trong buổi thẩm vấn cuối cùng ngày 15-10-1984... đáp lại câu hỏi có nội dung: “Căn cứ vào đâu mà chống đối tổ chức Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước”, tôi nói: “Tôi căn cứ vào Tuyên cáo của Thánh bộ Giáo sĩ ngày 8 tháng 3 năm 1982” (dựa theo Giáo Luật cũ và mới của Tòa Thánh: cấm các Giáo sĩ, Linh mục không được thành lập và tham gia các Hiệp hội có tính cách nghiệp đoàn chính trị), người phỏng vấn tôi lại căn cứ vào Nghị quyết 297/CP, phần II, số 6c: “Những tài liệu tôn giáo từ các tổ chức tôn giáo ở nước ngoài gửi cho các tổ chức tôn giáo nếu có điều gì trái pháp luật, chính sách của nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, thì các tổ chức tôn giáo không được phổ biến và thực hiện !!” và nói đại để rằng : “Tuyên cáo của Thánh bộ Giáo sĩ, và kể cả Giáo luật mới cũng chưa được nhà nước kiểm duyệt, huống chi là đi ngược với chính sách nhà nước, nên đem thi hành là vi phạm...”.

      Chính trong tinh thần câu nói của tay cán bộ này cũng như trong tinh thần câu nói của Nghị quyết Trung ương Đảng khóa 9, mục III: “Hướng dẫn các tôn giáo thực hiện quan hệ đối ngoại phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà Nước” mà người ta phải hiểu PL đ. 32 “Quan hệ quốc tế và hoạt động đối ngoại tôn giáo của tổ chức tôn giáo, cá nhân tôn giáo phải tuân thủ pháp luật Việt Nam”. Pháp luật Việt Nam không gì khác là ý muốn độc tôn của đảng. Thành ra khi Đảng tuyên bố tại Việt Nam có tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, không có tù nhân chính trị, không có tù nhân lương tâm thì các Giám mục, Thượng tọa cũng phải hùa theo Đảng mà nói dối trắng trợn như thế; khi nhà nước mở chiến dịch toàn quốc để bênh vực chế độ bạo tàn Saddam Hussein, phản đối dự luật Nhân quyền cho VN (đưa ra tại Hoa Kỳ) hay khi nhà nước cử phái đoàn ra ngoại quốc “giải độc dư luận” về vấn đề tôn giáo, thì không ít vị chức sắc tôn giáo đã được “yêu cầu” tham gia hay thậm chí tự nguyện tham gia. Cái gọi là “Tâm thư linh mục Nguyễn Văn Lý gởi Hội đồng GMVN” hôm 17-4 và “Tâm thư linh mục NVL gởi Lưỡng viện quốc hội Hoa Kỳ” hôm 27-6 vừa rồi là hai màn dàn dựng mới nhất theo chiều hướng đó. Thường xuyên hơn, hai tuần báo công cụ “Người Công giáo Việt Nam” và “Công giáo & Dân tộc” cũng như đám thành viên Ủy ban Đoàn kết đều đã luôn cung cúc tận tụy thực hiện điều này.

      Điều 34: “Tổ chức, cá nhân tôn giáo tham gia các hoạt động tôn giáo hoặc liên quan đến tôn giáo ở nước ngoài, mời tổ chức, cá nhân tôn giáo hoặc liên quan đến tôn giáo nước ngoài vào Việt Nam phải được phép của Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ” và đ. 35: “Tổ chức tôn giáo, nhà tu hành, chức sắc tôn giáo trong nước khi tham gia, gia nhập các tổ chức tôn giáo nước ngoài hoặc triển khai chủ trương của tổ chức tôn giáo nước ngoài về hoạt động tôn giáo phải được sự chấp thuận trước của Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ” cho thấy “tư tưởng Hồ Chí Minh” trong Sắc lệnh 234, điều 13 đã bị hậu duệ dày xéo không thương tiếc: “Chính quyền không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo. Riêng về Công giáo, quan hệ về tôn giáo giữa Giáo hội Việt Nam với Tòa Thánh La mã là vấn đề nội bộ của Công giáo”. Và với hai điều 34-35 nói trên, thì việc triển khai những hoạt động hoàn toàn thuộc nội bộ tôn giáo (như việc phổ biến thư ĐHY Angelo Sodano gởi ĐGM Nguyễn Minh Nhật cấm linh mục tu sĩ tham gia UBĐKCG ngày 20-5-1992, việc phổ biến Huấn dụ của Đức Thánh Cha đầu năm 2002 cho HĐGMVN, thậm chí việc triển khai đọc kinh Mân Côi có thêm năm Mầu nhiệm sáng, theo chủ trương của Tòa thánh...) đều phải được sự chấp thuận trước của Trưởng ban Tôn giáo! Còn việc ĐCS luôn áp đặt ý muốn lên giáo triều Vatican về vấn đề bổ nhiệm giám mục, việc nhiều chức sắc được phép ra nước ngoài phải gặp công an tôn giáo trước khi đi để nghe bảo ban mọi chuyện “nên làm” và “không nên làm” ở hải ngoại là điều ai cũng quá rõ và ngán ngẩm. Có dư luận cho rằng số lần xuất ngoại của các chức sắc tôn giáo là thước đo sự ngoan ngoãn của các vị này đối với Đảng.

 

KẾT LUẬN

 

      Qua 20 lần dự thảo Pháp lệnh thật ra không nhằm đáp ứng nguyện vọng chính đáng của công dân tôn giáo nhưng là để hợp pháp hóa cách hệ thống, chặt chẽ, và đầy đủ hơn mọi hành động của ĐCSVN đã đang và tiếp tục chà đạp và bóp chết nguyện vọng đó. Điều đó chỉ cho thấy rõ thêm những tính chất không thể thay đổi của cái Đảng độc tài toàn trị ấy đó là khinh rẻ, chà đạp ý kiến nhân dân và quyết tâm dùng bạo lực pháp lý (đặc biệt trong thời buổi "kinh tế thị trường") lẫn bạo lực vũ khí (có nơi, có lúc) để gông cổ các giáo hội.

      Nhưng thế giới hiện nay là một mái nhà chung, được điều hành bởi công pháp quốc tế (đề tài Sứ điệp hòa bình 2004 của Đức Gioan-Phaolô II). Nhân loại văn minh đã hình thành nên những quan niệm phổ quát về tự do tôn giáo, được diễn tả đầy đủ rõ ràng trong các Công ước về nhân quyền. Riêng Giáo hội Công giáo cũng đã có những nhận định rất đúng đắn về tự do đó trong Tuyên ngôn về Tự do tôn giáo của Công đồng Vatican II. Thành thử trước nguy cơ sợi xích sắt sắp tròng quanh cổ, thiết nghĩ các tổ chức tôn giáo tại VN chẳng cần góp ý xây dựng Pháp lệnh Tôn giáo hay mè nheo xung quanh Sắc lệnh 234 (mà ông Hồ ký năm 1955) vì chỉ hoàn toàn vô ích thôi. Thật vậy trừ khi các tôn giáo có thể tạo ra được vào lúc này những phản kháng tập thể, rộng khắp, và công khai, bằng không Pháp lệnh thế nào cũng được thông qua, Nghị định thế nào cũng được ban hành với những nội dung đúng theo kế hoạch mới đối phó với tôn giáo mà Đảng đã hoạch định. Trái lại một điều mà cộng đồng tín hữu Công giáo Việt Nam qua hàng ngũ lãnh đạo của mình (và cộng đồng các tôn giáo  khác cũng có thể làm tương tự) có thể làm được lúc này và nên làm đó là thẳng thắn và công khai tuyên bố với ĐCS: "Nói chung chúng tôi phản đối mọi văn bản pháp quy dành riêng cho các công dân có tôn giáo vì sự hiện hữu của một văn bản như thế tự nó đã là sự đối xử không bình đẳng mà có phân biệt đối với những công dân đó.[13] Còn nói riêng đối với Pháp lệnh và Nghị định về tôn giáo mà Nhà nước đang làm, thì chúng tôi hoàn toàn phủ nhận và do đó không thể tuân giữ, trừ khi bị cưỡng ép, bất cứ điều gì trong hai văn bản đó mà đối nghịch với các Công ước nhân quyền của thế giới mà chính Nhà nước cũng đã ký vào hay đối nghịch với Tuyên ngôn về tự do tôn giáo của Công đồng Vatican II đã quy định một trong những  nguyên tắc sống của người Công giáo"[14]. Có thế thì khi ĐCS phê chuẩn Pháp lệnh tôn giáo và ban hành Nghị định tôn giáo thì trong nước và ngoài nước vẫn thấy rõ ràng là các cộng đồng tôn giáo ở VN không hề cam chịu trói buộc mà cùng lắm chỉ bị Đảng  cưỡng bức, ép buộc. Nhược bằng cộng đồng các tôn giáo im lặng theo nghĩa nhẫn nhục, cam chịu (hay thậm chí có những tín đồ còn thỏa hiệp đồng tình), thì Đảng sẽ lấy cớ luật pháp mà đàn áp hiệu quả hơn quyền tự do tôn giáo của họ, nghĩa là dựa vào pháp luật bất công mà họ đã không công khai, thẳng thắn phản đối[15]. Nhưng bao lâu mà cộng đồng các tôn giáo tại VN còn cam chịu để quyền tự do tôn giáo của mình bị trói buộc, thì chắc chắn bấy lâu xã hội VN vẫn tiếp tục lún sâu vào những tệ đoan thảm trạng mà thư của các GMVN gửi Quốc hội cũng như bao vị lãnh đạo tinh thần khác đã và đang đau đớn tố cáo.

     Chớ gì nhờ lời cầu bàu của các thánh Tử đạo Việt Nam, những chứng nhân vô địch của quyền tự do tôn giáo, và qua việc kiên trì tranh đấu bất bạo động cho tự do của những ai còn yêu mến quê hương, đồng bào, và các Giáo hội, nguyện xin Thiên Chúa ban cho mọi tôn giáo tại Việt Nam sớm tự do thực sự và hoàn toàn.

 

Viết xong tại Huế ngày 10-9-2003

Lm Phêrô Nguyễn Hữu Giải & Lm Phêrô Phan Văn Lợi

 

 

 



[1] Sắc lệnh 234/SL ngày 14-6-1955, Nghị quyết 297/CP ngày 11-11-1977, Chỉ thị 379/TTg ngày 23-7-1993, Nghị định 26/CP ngày 19/4/1999.

[2]Vì không có trong tay Dự thảo PL số 20 nên chúng tôi phải phân tích dựa trên Dự thảo PL số 19 và Dự thảo NĐ số 4. Nhưng theo nhiều vị đã đọc cho biết, dự thảo số 20 chẳng thêm bớt gì nhiều. Là tín hữu Công giáo, không thể biết rõ về hoàn cảnh của các Giáo hội khác, nên chúng tôi cũng xin phép lấy ví dụ dẫn chứng chủ yếu từ trong Giáo hội Công giáo.

[3] Bộ Luật Dân sự 1995 không có khoản nào coi tôn giáo như pháp nhân. Xem các điều 94-115 bộ luật này.

[4] Xem “Báo cáo tổng thuật của Ban Tôn giáo Chính phủ năm 2003 (không đề ngày tháng) về Dự thảo 19 PL” , mục II số 3b. 

[5] Khỏi phải nói nhiều về những nhóm từ "gắn bó với dân tộc"  "phù hợp với pháp luật": ở đây cũng như ở bất kỳ chỗ nào khác, chúng đương nhiên phải được hiểu theo nghĩa của ĐCS là "gắn bó với Đảng", cho dù có đi ngược lại với truyền thống đạo lý văn hóa hay ích lợi của dân tộc, là "phù hợp với ý muốn tùy lúc tùy nơi của Đảng", cho dù có đi ngược lại với văn bản luật pháp của Đảng.

[6] Trong lãnh vực dân sự cũng vậy. Ví dụ trước 1975, Hội Hướng Đạo, sau khi xin phép rồi được chính quyền VNCH công nhận như một pháp nhân và được tự do hoạt động khắp miền Nam, thì các tráng đoàn, thiếu đoàn, ấu đoàn đương nhiên được công nhận theo như những pháp nhân nhỏ, chẳng cần làm thủ tục xin phép lại tại địa phương.

[7] Người ta còn nhớ đã có một thời Hội đồng Giám mục Việt Nam không được phép có con dấu riêng.

[8] Xem Báo cáo tổng thuật của Ban Tôn giáo, mục II số 5 và Báo cáo Những quy định trong Dự thảo PL Tôn giáo về vấn đề hội đoàn tôn giáo (cũng của Ban Tôn giáo).

[9] Tức “Trung thành với Thiên Chúa, Giáo hội và Tổ quốc”

[10] Xem Công giáo & Dân tộc số 1410, tuần lễ 6-12.6.03, tr. 26-27 trích dịch cuốn “La colombe et le napalm - Des chrétiens francais contre les guerres d’Indochine et du Vietnam (1945-1975)” của Sabine Rousseau.

[11]Theo tin báo Lao Động ngày 3/10/02, bộ GD-ĐT đã cho biết tổng kết mùa thi vào đại học năm 2002 như sau:  Trong tổng số 823.402 thí sinh có 3 em đạt điểm cao nhất 29,5/30. Có 125 em đạt 0 điểm, 8.411 em nửa điểm, 14.658 em 1 điểm, 456.973 em (55,4%) dưới 8 điểm. Điểm trung bình của đợt thi tuyển là 8,4/30. Nếu lấy từ 10 điểm trở lên thì tuyển được 266.869 sinh viên, từ 13 điểm thì có 168.000 trúng tuyển.

Một tổng kết và phân loại điểm của các thí sinh mùa thi vào đại học năm 2003 cho thấy có đến 85% số thí sinh có điểm thi đại học dưới trung bình (tức dưới 15 điểm / ba môn thi) và có 10.000 thí sinh có điểm liệt (Theo báo Người Lao Động, 26-8-2003). Đang khi đó thì thi cao học lại giảm yêu cầu ngoại ngữ, giảm từ tốt nghiệp đại học loại khá giỏi trở lên xuống loại trung bình, trung bình khá (Tuổi trẻ Chủ nhật 31-8-2003, trang 19).

[12] Theo báo cáo mấy niên khóa gần đây về thành quả giáo dục toàn quốc, thì: Tiểu học => toàn xuất sắc. Trung học => trên 90% tốt nghiệp. Đang khi đó thì Thi đại học (2003) => 85% điểm dưới trung bình (Tuổi trẻ Chủ nhật 31-0-2003). Điều đó cho thấy điểm đậu Tiểu học và Trung học nói trên thực hay giả.

[13]Bản góp ý xây dựng Pháp lệnh về tôn giáo của tòa tổng giám mục Huế ngày 21-7-2000 có viết: “Thực tâm mà nói, chúng tôi không muốn có những văn bản pháp qui liên quan đến tôn giáo. Dù là công dân có tôn giáo chúng tôi chỉ xin được làm một công dân bình thường như mọi công dân khác trong đất nước theo nguyên tắc của Hiến Pháp: 'Mọi công dân đều bình đẳng trước Pháp luật', vì dành cho công dân có Tôn giáo luật lệ riêng phải chăng là phân biệt đối xử?"

[14] Huấn dụ của Đức Thánh Cha cho HĐGMVN đầu năm 2002 đã chẳng nhắc nhở như thế sao?

[15] Phần lớn đoạn dài này là những gợi ý rất xác đáng của Linh mục Phaolô Trần Xuân Tâm.

 

 

 


[Trang nhà] [Về MLNQ] [Luật NQ] [Tài liệu] [Báo cáo NQ] [Giải NQVN ] [Diễn đàn] [Liên kết]