Hai mươi năm Cải tổ Kinh tế và Luật pháp ở Việt nam

 TSTạ văn Tài*

 

Lờì Phi Lộ:

       Ngày 21 tháng 3 năm 2006,  ở New York, tại Council on Foreign Relations , một diễn đàn hàng đầu về các vấn đề ngoại giao của Mỹ, luật sư Tạ văn Tài ,nguyên giáo sư các Đại học Luật khoa và Trường Quốc Gia Hành Chánh Việt Nam trước 1975 và nguyên giáng sư/nhân viên nghiên cứu trưòng Đại học Luật Khoa Harvard, đã trình bày một cái nhìn tổng quan về các cải tổ về kinh tế và luật pháp tại Việt Nam  trong 20 năm qua, trong một ban hội thảo gồm có Giáo sư Jerome [1][1]. Cohen của Đ.H. Luật New York là Chủ tọa, vói hai thuyết trình viên khác là giáo sư Brian Quinn, Đ.H. Luật Stanford, giáo sư Mark Sidel, Đ.H.Luật Iowa.

        Sau buổi thảo luận này tại New York vào tháng 3,2006, các thay đổi trong tháng 4 năm 2006 của Đại Hội  Đảng Cộng Sản Việt Nam chứng tỏ họ chưa chấp nhận một tiến trình dân chủ ngay trong hang ngũ đảng viên, dù nhiều người Việt Nam thuộc nhiều giai tầng xã hội khác nhau, đặc biệt nhiều viên chức cao cấp đã về hưu (trong đó có cựu Thủ tướng Võ văn Kiệt) đã kêu gọi dân chủ hoá trên báo chí : con số ứng cử viên vô Ủy Ban Trung Ương được đề cử và giới thiệu cho Đại Hội chấp thuận bầu vào ngày 24 tháng 4,2006 thì chỉ hơn nhân số cần phải bầu/chọn chừng 10%. Điều đó cho thấy ngay trong Đảng, chưa có cạnh tranh thực sự trong một cuộc bầu cử đích thực; tên các người sẽ làm Tổng Bí Thư, Thủ tướng Chính Phủ, Chủ Tịch Quốc Hội đã được chọn lựa trước do Bộ Chính trị hay Ban Tổ Chức Trung ương và được tiết lộ cho báo giới, rõ ràng Đảng chẳng quan tâm đến tiến trình hiến định là phải bầu họ lên trong một phiên họp Quốc Hội, cuộc bầu đó chưa sảy ra  mà kết quả đã định sẵn. Nhưng trào lưu dân chủ trong lòng dân tộc Việt Nam tại quốc nội cũng như hải ngọai không có ai ngăn cản nổi, như đã thấy rõ qua sự xuất hiện gần đây của các nhóm người can đảm trong nước, nhất là trong lớp người trẻ, đứng lên đưa ra những tuyên ngôn và tập hợp lại để đòi tự do ngôn luận, nhân quyền nói chung, và dân chủ cho cả dân tộc mà người Việt hải ngoại cũng đã biểu dương sự ủng hộ.

      Riêng về cải tổ luật pháp để thỏa mãn các đòi hỏi về pháp trị (theo đúng các tiêu chuẩn luật thương mại quốc tế) của Hoa kỳ trong diễn tiến thi hành Thỏa Ước Thương Mại Mỹ-Việt, và của các hội viên của Tổ Chức Thương Mại Tòan Cầu (World Trade Organization-WTO) trong diễn trình đàm phán đa phương, thì Việt Nam đã cố gắng tối đa --như liệt kê trong bài thuyết trình này -- để vượt nhiều khó khăn, và có lẽ Việt Nam sẽ sớm có được quy chế thương mại bình thường (normal trade relations) với Hoa Kỳ, và sẽ được Đại Hội Đồng Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế WTO chấp nhận cho gia nhập vào đầu tháng 11,2006.

        Bài tham luận dưới đây là tóm lược nhiều cải cách khác nhau cùng với bối cảnh ở Việt Nam cũng như những nhận xét phê bình để cống hiến cho độc gỉa, trong nước cũng như hải ngoại,  hay quốc tế.

     . Báo Pháp Luật và Đời Sống (Houston) là tờ báo đầu tiên đã giới thiệu bài của Giáo sư Tạ văn Tài đến độc giả và Hội Ái Hữu Luật Khoa Saigon và tất cả các cựu sinh viên Luật Khoa Việt Nam..

      Chúng tôi đăng tải bài thuyết trình này để rộng đường dư luận. 

***

         Hôm nay, hiện diện trước qúi vị là một đội ngũ những vị chuyên gia giỏi mà tôi đã may mắn được gặp trong sinh hoạt nghề nghiệp kể từ khi tôi đến Mỹ như một người tị nạn sau biến cố 1975.

         Thứ nhất, tôi được gặp Giáo sư Brian Quinn nhiều năm trước đây khi ông đang theo học tại đại học Harvard trong nhóm  các sinh viên hậu đại học từ Việt Nam sang, sau khi chính phủ Mỹ bỏ cấm vận năm 1994. GS Brian cùng với nhóm này đã trở lại VN để làm việc trong một tập thể, mà lúc đó chúng tôi gọi đùa là nhóm Harvard mafia, tựa như nhóm Berkeley mafia ở Indonesia gồm các sinh viên trở về từ đại học Berkeley, California. Tôi được nghe nhiều về các công việc ông làm tại VN và coi ông là một nhân chứng đáng tin cậy về các cải cách kinh tế và luật pháp ở VN. 

         Tiếp theo là Giáo Sư Mark Sidel, ngừơi tôi cùng tham gia trong Hội nghị  Việt Mỹ Thường niên của Viện Aspen Institute, năm 1993 họp tại Hawaii, để bàn luận tìm cách tháo bỏ cấm vận và binh thường hóa quan hê Việt Mỹ, mà một biện pháp là gửi một điện văn cho Tổng Thống Clinton. . Tôi ở trong phái đòan Mỹ, và tôi biện luận rằng trong diễn tiến thực hiên các cuộc cải cách kinh tế và luật pháp trong thời kỳ Đổi Mới tại VN, nếu người Mỹ bỏ cấm vận và trở lại VN như những người hổ trợ cho những biện pháp cải tổ, xây dựng trường học, bệnh viện, nâng cao mức sống người dân v.v.. thì họ sẽ có thể chiến thắng trong hoà bình và có thể quên đi chiến tranh VN và các hội chứng đi kèm vì họ đã góp phần để ngừơi Việt Nam thực hiện được những lý tưởng đã được Hồ Chí  Minh  long trọng phát biểu  trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, mà  nhiều đọan đã trích từ Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ, như “Mọi người sinh ra là bình đẳng và được Tạo Hóa ban cho những quyền không thể bị tước bỏ, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền theo đuổi hạnh phúc”. Sau đó, Thứ trưởng ngoại giao Việt Nam Lê Mai đã lên phát biểu, nói rằng ông cảm kích vì vừa rồi có người đã đặt đúng trọng tâm vấn đề. Mark Sidel và tôi đã chứng kiến những cố gắng chung này để bỏ cấm vận (Tổng Thống Clinton đã tuyên bố biện pháp này vài tháng sau đó trong năm 1994)  và tiến tới bình thường hóa bang giao Việt Mỹ vào năm sau, 1995, những điều đó đã giúp rất nhiều cho việc cải tổ kinh tế và luật pháp tại VN. 

         Người thứ ba là Giáo Sư Jerome Cohen, người đã giúp tôi, một trí thức di cư lỡ vận, thăng tiến nghề nghiệp kể từ khi chân ướt chân ráo đến Mỹ năm 1975. Ông đã phát khởi hai dự án nghiên cứu lớn của tôi về luật pháp VN  tại Trung Tâm Nghiên cứu Luật pháp Đông Á của Đại Học Luật Khoa Harvard mà ông đã lập từ đầu thập niên 1960 và đã phát triển tốt đẹp. Năm 1990, ông đã mời tôi cùng ông viết quyển sách đầu tiên về Luật đầu tư ở VN, tập sách mỏng nhưng là quyển đầu tiên tại thế giới Tây phương về khởi đầu cải tổ luật pháp ở VN trong Thời Kỳ Đổi Mới bắt đầu từ 1986. Tập sách đã bị vượt qua bởi sự phát triển luật pháp mau đến chóng mặt ở VN, nhưng tôi thiết nghĩ GS Cohen, chuyên viên lỗi lạc về luật pháp Trung Quốc, có thể  đóng một vai trò quan trọng trong công cuộc liên tục cải tổ luật pháp ỏ VN, bởi vì nếu ông đến VN và tuyên bố : “Đây là cách người Trung Quốc đang làm trong lãnh vực luật pháp”, tôi tin chắc nhiều viên chức có thẩm quyền của VN sẽ rất chú tâm nghe vì VN vẫn thường bắt chước đàn anh lớn Cộng Sản Trung Quốc. Thí dụ, Trung Quốc bắt đầu chính sách Mở Cửa (Open Door) thì VN theo sau với Đổi Mới (Renovation), Trung Quốc cho phép đảng viên làm kinh tế thì liền sau đó VN cũng làm như vậy. Tôi có đùa với GS Cohen là nếu ông đến VN để thuyết trình về những cải tổ kinh tế và luật pháp ở Trung Quốc, thì cũng giống như ông mang theo một cái gậy lớn ở sau lưng, như Tổng Thống Theodore Roosevelt vậy, vì mỗi lời ông nói rất có trọng lượng, dù ông có nói rất nhỏ nhẹ đi chăng nữa để thôi thúc cải tổ. 

         Để bổ túc vào phần trình bày của GS Quinn và Sidel, và trong khi chờ đọi sự thảo luận cuả Giáo sư chủ tọa Jerome Cohen, tôi muốn thêm những nhận xét trong 4 phần sau về những cải tổ kinh tế và luật pháp ở VN sau Đổi Mới từ 1986: 

      1) Những cải tổ ở VN diễn ra chậm chạp vì thiếu ‘một Đặng Tiểu Bình Việt Nam’ trong đám lãnh tụ gìa cả lớp người cũ, họ chỉ miễn cưỡng cải cách khi kinh tế VN gần như phá sản vào đầu thập niên 1980. 

         Trong 10 năm hối hả tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa từ 1975 đến 1985, tất cả các lãnh đạo của VN  lúc đó, những người cả đời đã đấu tranh cho chủ nghĩa Mác Lê, luôn trừng phạt nặng nề những đối thủ của họ  và họ luôn theo tập thể lãnh đạọ, đều chậm chạp trong các quyết định theo phương thức đồng thuận hoặc thỏa hiệp, và vì thế, như Quinn nói, họ rút cục theo đuôi sáng kiến đổi mới của dân chúng trong các thí nghiệm ‘xé rào’ của dân. VN không có môt Đặng Tiểu Bình, một ngừơi lãnh đạo vượt trội, để dứt khoát quyết định thay đổi chính sách và tuyên bố: ‘Mèo trắng hay mèo đen đều tốt, miễn bắt được chuột.’ hoặc “Làm giầu là vinh quang”. Mãi  đến khi các lãnh đạo nhận  thức được mối hiểm nguy, như một trong họ là Trường Chinh nói “Đổi mới hay là chết,” thì Đại Hội Đảng  năm 1986 mới thừa nhận các sai lầm và quyết định Đổi Mới. Vào lúc đó, tình trạng bị quốc tế cô lập và khó khăn kinh tế như nạn lạm phát đến 700% và ngân qũi bị thâm thủng nặng nề, đã được coi là nghiêm trọng, theo sự đánh giá của người cực kỳ bảo thủ là Lê Đúc Thọ (người đối tác với Kissinger trong Hội nghị Paris 1973), trong Tạp Chí Cộng Sản. Năm 1987, tờ Nhân Dân Nhật Báo đã quy trách cho lãnh đạo về sự tập quyền hành chánh thiếu khả năng. 

         Một khi các cải tổ kinh tế được chấp nhận, các lãnh đạo đã nhận thức đươc phải cải tổ luật pháp song hành với cải tổ kinh tế, để ngăn chặn các đảng viên cấp dưới làm trì trệ tiến trình cải tổ.

         Tuy vậy, lãnh đạo miễn cưỡng caỉ tổ, nên cũng có nhiều chao đảo. Năm 1989, sau khi hệ thống cộng sản ở Liên xô và các nước Đông Âu sụp đổ cùng với cuộc khủng hỏang ở Thiên An Môn bên Trung Quốc, Tổng bí thư Nguyễn văn Linh đã cảnh cáo báo chí đừng viết các bài xã luận làm mất niềm tin vào Đảng và Chính phủ hoặc đề cập đến dân chủ đa nguyên. Trong khi một số lãnh đạo như Ủy Viên Chính trị bộ Trần Xuân Bách đã cổ võ cho việc cởi trói song hành cả chính trị lẫn kinh tế, thì các người bảo thủ trong Đảng đã lo lắng là cải tổ kinh tế có thể làm xói mòn uy tín độc quyền lãnh đạo của Đảng, nên họ đã cấm Câu Lạc Bộ Kháng Chiến hoạt động.  Nhưng rồi năm 1991, khi Đại hội Đảng lần thứ 7 diễn ra, thì  Lê đức Thọ chết. Sau chuyến thăm Liên Xô, Nguyễn văn Linh và Đỗ Mười nhận thức được là sẽ không thể nhận được sự giúp đỡ nào từ phiá Đảng Cộng Sản Liên Xô vì chính bản thân Liên Sô cũng đang gặp nhiều khó khăn. Bộ Chính trị tái phối trí (6 thành viên già nua về hưu) theo chiều hướng thuận lợi cho các người có đầu óc cải tổ (Võ văn Kiệt, Phan văn Khải, Võ trần Chí), tuy rằng vẫn chỉ là caỉ tổ kinh tế mà không có đa nguyên chính trị.

         Nhưng có nhiều lợi ích kinh tế do chính sách Đổi Mới từ 1986 đến nay, như số thu do xuất cảng đã gia tăng từ việc xuất khẩu dầu thô, nông sản và sau này, cả các sản phẩm kỹ nghệ cho thế giới bên ngòai; đặc biệt là thị trường Mỹ sau khi Thỏa Ước Thương mại Song Phương Mỹ Việt được ký kết. Không còn có thể đi ngược lại chính sách cải tổ kinh tế theo định hướng thị trường nữa. Một phụ tá của Ông Võ trần Chí, ủy viên bộ chính trị, đã nói với tôi khi tâm sự trong một bữa ăn: “Ông Tài này, Việt Nam không còn Cộng Sản nữa đâu”. Khi đảng viên cộng sản VN được phép kinh doanh như bên Trung Quốc và trở thành các sở hữu chủ của các công cụ sản xuất lớn, thì chủ thuyết Mác Lê đã hay sẽ mệnh một ở Việt Nam. Ngay cả thái độ của nhà cầm quyền VN đối với các kiều bào hải ngọai, trước kia vẫn coi họ như đội quân bại trận hoặc thành phần đĩ điếm, ma cô, thì nay càng ngày càng hòa hoãn hơn : chế độ gọi người Việt hải ngoại là ‘Khúc ruột ngoài ngàn dặm’, bởi vì họ góp từ 3 đến 4 tỷ Mỹ kim  qua đầu tư hoặc gửi về cho thân nhân, trong khi đó tổng sản lượng quốc gia của VN chỉ khoảng 12 tỷ Mỹ Kim. 

        2) Khởi đầu, mục đích chủ yếu của cải cách kinh tế là nhằm đáp  ứng đòi hỏi của những đối tác  quốc tế hầu gia tăng viện trợ phát triển của các chính phủ,  đầu tư trực tiếp từ nứơc ngòai và giao dịch ngọai thương. Do đó VN sẵn sàng chấp nhận các trợ giúp quốc tế về luật pháp từ mọi phía, để từ đó xây dựng một nền pháp trị cần cho phát triển kinh tế và giao dịch thương mại quốc tế trong thới đại toàn cầu hóa. 

         Nếu các mục đích vừa nói trong tiêu đề trên là các mục đích chính của cảỉ cách kinh tế thì VN phải tỏ cho thế giới bên ngòai là đây là đất nước có Pháp trị -- Rule of Law (hay ít ra là cai trị bằng luật pháp - rule by law) chứ không phải được cai trị độc đóan.

         Hiến pháp 1992 ghi rõ là Đảng hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và là một lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội (không còn là ‘lực lượng duy nhất lãnh đạo xã hội’ như trước đây). Hiến pháp bảo đảm các đầu tư ngọai quốc không bị quốc hữu hóa.

         Đạo luật đầu tiên khích lệ đầu tư ngọai quốc được ban hành năm 1987. Sau đó, nói rộng ra, về phương diện luật quốc tế lẫn luật quốc nội, chế độ muốn chứng tỏ là có một nền pháp trị: mặc dù nghị quyết của Đảng vẫn là nguồn gốc của chính sách và luật lệ (nghị quyết dẫn tới luật lệ), tôn chỉ mới của giai đọan này là văn bản lập pháp của Quốc Hội (luật) hay của Ủy ban Thường Vụ QH (pháp lệnh)  và những văn bản thi hành của Hành pháp (nghị định của Thủ Tướng hay các Tổng Truởng hay thông tư của chính quyền trung ương hay các tỉnh) là các nhân tố căn bản của các đổi mới kinh tế.

          Các trường luật mới đươc xây dựng thêm với số sinh viên ghi danh đông gấp mười lần và vai trò của luật sư có nhiều ý nghĩa hơn, đồng thời các thẩm phán và nhân viên công tố được đào tạo chuyên nghiệp hơn.

         Đã có tiến triển phần nào đi từ quan niệm coi luật là phương tiện, tức là ‘cai trị bằng luật’, đi tới quan niệm pháp trị, tức pháp luật ngự trị trên mọi người. Luật lệ được soạn đầy đủ hơn trong nhiều lãnh vực: Luật Hiến Pháp, Luật Hành Chánh (thí dụ: luật báo chí, luật về nghề luật sư), Dân Luật (Bộ Luật 1995) và Luật Gia Đình (1986), Bộ Luật Tố Tụng Dân sự (1989, tu chính gần đây)., Bộ Hình Luật (1985), Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự (1988, tu chính 2004), Bộ Luât Thương Mại, Các Luật Kinh Tế và Tài chánh (luật công ty, thuế khóa, ngân hàng, bảo hiểm, phá sản), Luật Đất đai (1987, tu chính 1993), Bộ Luật Lao động (1994), Luật Ngọai thương (xuất nhập khẩu, luật hàng hải, hối đóai), Luật Đầu tư (tổng quát về đầu tư, luật dầu hỏa và khí đốt, khoáng sản, đánh cá, lâm sản, hàng không). Lãnh vực kinh tế đối ngọai là phần quan trọng đặc biệt trong chương trình cải tổ luật pháp. Cũng vì những cải tổ này, Ngân Hàng Thế Giới đã khen ngợi VN làm mau hơn Trung Quốc. Bản dịch của hầu hết luật lệ về đầu tư và ngoại thương được một công ty luật của Úc thực hiện gồm 7 bộ sách đồ sộ, đủ làm cho một người nhìn thấy chóng mặt, chưa nói chi đến đọc chúng.   

         Việc cải tổ Luật pháp này được sự trợ giúp của nhiều cơ quan đa quốc gia chuyên về trợ giúp pháp luật, hoặc là các chính phủ ngoại quốc hoặc là các tổ chức đa phương. Mục đích chung của các nước song phương tài trợ, như Thụy Điển, Đan Mạch, Canada, Pháp (một hoạt động là lập ‘Ngôi Nhà Luật/Maison de Droit’ tại Trường Luật Hà Nội, hy vọng Việt Nam trở lại với hệ thống luật của Pháp) , Úc, Nhật (ít hơn nước khác), Mỹ (bắt đấu ít, nhưng nay là quốc gia tài trợ nhiều sau Thỏa Ước Thương Mại Mỹ-Việt - xem dưới đây) là: cổ võ quan hệ ngoại thương và đầu tư với  nền kinh tế thị trường mới mẻ tại Việt Nam, và tăng cường tính chuyên nghiệp của các luật sư VN qua việc huấn luyện kỹ năng nghề luật , đồng thời  tránh các đề tài chính trị nhạy cảm như nhân quyền, dân chủ -- với niềm hy vọng là chính phủ họ sẽ có nhiều ảnh hưởng hơn ở VN. Bên cạnh đó còn nhiều chương trình của các quỹ tặng lập (foundations) của tư nhân từ Mỹ (Asia, Ford) , các đại học (Harvard với Chương Trình Việt Nam về kinh tế, British Columbia, State University of NewYork/Buffalo), và các tổ chức phi chính phủ (như US-Vietnam Trade Council). Tuy nhiên chính phủ VN thích các chương trình đa quốc gia như Chương Trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UN Development Program -- UNDP) (có chương trình ‘Củng cố Khả Năng Luật Pháp của Việt Nam’ -- hoạch định một khung cảnh pháp luật cho phát triển, huấn luyện luật sư và các viên chức lo về luật, họ cố vấn cho chính quyền về sọan thảo văn bản luật và lập hệ thống thông tin và cũng huấn luyện sinh viên nữa) , Ngân Hàng Thế Giới (cải cách luật sở hữu tài sản, luật thương mại, luật tài chánh, đầu tư ngọai quốc và giải quyết tranh chấp) và Ngân Hàng Phát Triển Á Châu (cổ phần hóa xí nghiệp quốc doanh, tu nghiệp về luật cho các luật sư) , vì mang tính trung lập về chính trị hơn. Một viên chức của UNDP đã nói: ‘VN không tiếp nhận những quan niệm áp đặt từ bên ngoài. Vấn đề sẽ hoàn tòan bế tắc nếu Đảng Cộng Sản bị chỉ trích về nhân quyền.’ Tất cả các học gỉả, luật sư, viên chức của VN đều phản kháng lại ảnh hưởng qúa mạnh của bất luận hệ thống luật pháp nào. Họ theo chủ trương tổng hợp, học hỏi từ mọi phía.

         Gần đây, với việc ký kết Thỏa Ước Thương mại Song phương Mỹ-Việt (TUTM) và những chuẩn bị của VN để gia nhập Tổ chức Thương Mại Toàn Cầu (World Trade Organization /WTO), đã có nhiều nỗ lực-- qua chương trình STARR (Support for Trade Acceleration Project) với sự trợ giúp tài chính mạnh mẽ từ năm 2001 của cơ quan Viện Trợ Mỹ USAID -- để giúp chương trình cải tổ luật pháp của Việt Nam được cập nhật  theo kịp đòi hỏi của Thỏa Ước Thương mại Song phương và việc gia nhập Tổ Chức Thương Mại Tòan Cầu. Chương Trình STARR đã hoạt động và sẽ tiếp tục trong 4 lĩnh vực sau:

      (i) Yểm trợ để phát triển các quy phạm luật pháp (45 luật và nghị định) nhắm tới pháp trị và cải tổ kinh tế (qua các lời bình chi tiết và các hội nghị và buổi tập huấn). Gồm các việc như:  huấn luyện các viên chức chính quyền và các doanh gia để hiểu rõ các chuẩn mực và đòi hỏi của TUTM và WTO, tập huấn các thẩm phán và viên chức tòa án để họ hiểu các đòi hỏi của TUTM về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và giải quyết các tranh tụng;  tăng cường tính trong sáng bằng việc công bố luật lệ đúng thời  điểm và thường xuyên hơn trên Công Báo, kể cả Công Báo Điện tử; bổ túc cho Tố Tụng Dân sự để ngăn chặn kịp thời các vi phạm quyền sở hữu trí tuệ; tạo sự  bình đẳng trong hệ thống tài chính cho  những ngân hàng có vốn đầu tư nước ngòai 100%; cởi mở  hơn và  thi hành án của hệ  thống trọng tài thương mại ; kích thích  cạnh tranh qua luật cạnh tranh mới;  hình thành luật chống bán phá giá theo tiêu chuẩn của WTO; cải tổ luật về khế ước, tài sản, và các giao dịch có bảo đảm cầm thế trong các Bộ Dân Luật  và Luật Thương Mại; tăng cường luật về quyền sở hữu trí tuệ trong Bộ Dân Luật bằng một đạo luật mới cho phù hợp với các hiệp định  quốc tế, và một điều hướng dẫn mới trong Bộ Luật Tố Tụng Dân  Sự; duyệt xét lại luật thuế quan.

          Kế họach cho năm 2006: duyệt xét lại toàn bộ các luật về đầu tư và về xí nghiệp (công ty) bằng việc triển khai Luật Đầu Tư Chung và Luật Doanh Nghiệp Thống Nhất, để cho các xí nghiệp tư nhân, quốc doanh và ngọai quốc có cơ hội đồng đều, theo như đòi hỏi của TUTM, cũng như thay thế chế độ chuyên quyền cấp giấy phép kinh doanh bằng chế độ đăng ký dễ dàng; phát triển một bộ luật mới về thi hành án văn; một sự sửa đổi lớn lao về luật khiếu nại và tố cáo (kháng cáo các quyết định hành chánh lên các tòa án độc lập, rồi các tòa án tư pháp) trù liệu hoàn tất vào giữa năm 2007, như là sự cải tiến quan trọng theo tôn chỉ pháp trị, đáp ứng đòi hỏi về ‘quyền kháng cáo’ theo đòi hỏi của TUTM và WTO; ngòai ra làm một luật mới về chứng khóan và chuyển nhượng kỹ thuật. 

      (ii) Yểm trợ cho 123 buổi hội thảo và tập huấn cho 9800 viên chức chính quyền, chánh án, các lãnh đạo doanh nghiệp, để đẩy mạnh một cải cách luật pháp nào đó, hay xây dựng khả năng thi hành một cải cách, hay giúp dân chúng hiểu biết các vấn đề đặt ra bởi  TUTM và WTO.

      (iii) Giúp xuất bản và phân phối trên toàn lãnh thổ VN hơn 43500 bản các tài liệu tham khảo khác nhau.

      (iv)  Giúp 77 viên chức cao cấp tham dự 19 khóa du hành nghiên cứu. 

         Dù với các cố gắng nêu trên, và số thu ngọai thương gia tăng và số cổ phần của các xí nghiệp quốc doanh lớn bán được trên thị trường thế giới cũng tăng, và sau hết Việt Nam được sự ủng hộ rộng rãi của  các nước Tây phương,  nhưng VN vẫn bị trì hoãn việc gia nhập vào WTO có thể đến cuối 2006, vì thương thuyết với Mỹ có tính  quyết định và sau khi đại diện thương mại Mỹ thăm VN vào trung tuần tháng 6 năm 2006, VN còn phải trải qua các  cuộc biểu quyết tại Quốc Hội Mỹ để VN được hưởng qui chế thương mại bình thường vĩnh viễn, và nhất là phải kết thúc các đàm phán đa phương với các hội viên khác trong WTO. Vụ kiện bán phá giá cá ba sa và tôm cho ta thấy Mỹ có thói chơi bài poker với VN: VN càng thặng dư ngọai thương với Mỹ, thành phần bảo vệ mậu dịch Mỹ càng tìm cách chống lại VN, do đó giải pháp duy nhất cho VN là cố gắng gia nhập WTO. Cần lưu ý là việc gia nhập WTO không tuỳ thuộc vào quy chế thương mại bình thường với Mỹ. 

         Nếu dùng cách nhìn tổng quan xét toàn thể công cuộc cải tổ luật pháp, cả luật trong tương quan đối ngoại lẫn luật về các vấn đề nội bộ, chúng ta thấy luôn luôn có cách biệt giữa luật lệ trên giấy tờ và luật trong đời sống thực tế. Bà Ngô bá Thành, một dân biểu Quốc Hội, có một thời gian bị thất sủng, đã nói một cách mỉa mai: “Đó là rừng luật hay luật rừng?”.

       Tình trạng luật rừng có phải vì tham nhũng và sự không muốn thi hành luật pháp hay không ?.

       Đôi khi, vài người yếm thế qui trách sự không thi hành luật lệ cho những nhà soạn luật lệ cố ý viết chúng một cách mơ hồ và thiếu chính xác để họ có thể luồn lách, thoát ra khỏi các cam kết khi muốn. Ví dụ như giả vờ vi phạm các qui định của thành phố để bãi bỏ việc đặc nhượng cho Singapore một khu đất tốt và thay vào đó một lô đất ở xa hơn.

         Nhưng có lẽ nguyên nhân quan trọng hơn về vị thế mong manh của nền pháp trị là sự tham nhũng lan tràn, như Giáo sư Quinn đã đề cập, điều đó làm người ta bi quan về triển vọng được đối xử vô tư và công bằng tại Việt Nam, khi phải tiếp xúc với các giới chức hành chánh và đặc biệt khi phải đối đầu với tòa án và viện kiểm sát. Viện kiểm sát là cơ quan bị người dân ghét và cô lập nhất và được coi là thành phần tham nhũng. Hiện tại, toà án có tính tự trị và được tổ chức thành ba cấp thẩm quyền để bảo đảm việc xử án công minh và kỹ lưỡng (xử sơ thẩm, rồi toà kháng cáo  sẽ xử lại cả về sự kiện và luật áp dụng và sau hết, Tòa Án Tối Cao sẽ tái thẩm chung quyết); dù vậy, tòa án vẫn bị coi là chưa đủ công bằng và còn thiếu vô tư, vì thiếu sự độc lập, lý do là vì các quan tòa được chỉ được bổ nhiệm cho nhiệm kỳ 5 năm (thay vì suốt đời), vì vậy họ dễ bị lung lạc do sợ mất chức và sợ bể nồi cơm, và vẫn giữ thói quen ‘thỉnh thị  án’, xin ý kiến của tổ Đảng mỗi khi xử án, mà ông Quinn cũng đã nhận xét. Nhưng nguyên nhân đáng sợ nhất gây ra thiếu vô tư khi xử án là tham nhũng và hối lộ. Ngay cả một luật sư xuất sắc, người lãnh đạo trong số 400 luật sư tham dự lớp tập huấn tại Hà nội năm 2004, người đã thay mặt 400 người tóm lược các đòi hỏi của các luật sư để chính quyền nhận cải tổ, và khiến tôi phục vì lý do đó, nhưng nghe tin tức người ta nói thì sau này ông cũng nhận hối lộ. Một ví dụ khác về tham nhũng là vụ của một Tổng Thanh tra Nhà nước (tháng 2/2006), ông đã nhận hối lộ để giảm hay xóa án cho các viên chức thuộc Kỹ nghệ dầu hỏa, họ đã làm giấy tờ giả mạo để ăn cắp vật liệu xây dựng và tiền bạc trong một công trình tại Cảng Thị Vải.

         Có lẽ lo âu nhiều về tham nhũng/hối lộ nên Bộ Chính Trị đã ra hai nghị quyết để cải tổ luật pháp. Nghị Quyết 48-NG/TU ngày 18 tháng 10 năm 2005 về Chiến Lược Cải Tổ Tư Pháp từ nay đến 2020,  nhằm cải tiến công tác, khắc phục những thiếu sót về phẩm chất, đạo đức cũng như tính chuyên nghiệp. Nghị quyết 49-NG/TU về Chiến Lược Xây Dựng và Hòan Chỉnh Hệ thống Luật pháp VN đến năm 2010 là phát triển hệ thống tư pháp trong sạch, vững chắc, dân chủ, nghiêm ngặt và phục vụ nhân dân -- thông qua những chính sách phù hợp với kinh tế thị trường, bảo đảm tính dân chủ, trong sáng, tôn trọng nhân quyền, cũng như qua sự huấn luyện một lớp cán bộ ngành tư pháp  hội đủ các tiêu chuẩn cao về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên nghiệp, và kinh nghiệm , đồng thời khuyến khích nhân dân tố cáo tham nhũng.

       3) Pháp trị là một nền tảng căn bản cho một xã hội văn minh và công bằng mà VN muốn đạt đến qua phương châm của mình. Mục đích cao hơn tiếp theo là tôn trọng nhân quyền trong hệ thông luật pháp.

        Trong Bạch Thư ngày 19 tháng 8 năm 2005 về ‘Thành tích Bảo Vệ và Phát Huy Nhân Quyền ở VN’ của Bộ Ngọai Giao VN -- phát hành nhân dịp 60 năm kỷ niêm Cách mạng 19 tháng 8 -- chính quyền đã lặp lại bản Tuyên Ngôn Độc lập được Hồ chí Minh đọc năm 1945 trong đó ông đã viện dẫn và long trọng tuyên bố một câu nổi tiếng trong Bản Tuyên Ngôn Độc lập của Hoa Kỳ: “Mọi người sinh ra đựơc bình đẳng và Tạo Hóa ban cho họ quyền sống, quyền tự do và  quyền theo đuổi hạnh phúc”.

         Bạch thư đề cập đến những văn bản quốc tế mà VN đã ký kết, như Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, Bản Tuyên ngôn Nhân Quyền (1976) và hai Hiệp Định Quốc tế về Các Quyền Chính trị, Dân Sự, và Các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa (1982) , rồi tái khẳng định sự tôn trọng nhân quyền và tôn trọng mỗi con người vốn là tâm điểm của mọi chính sách và những cố gắng tối đa của chính quyền Việt Nam, trong việc cổ võ nhân quyền thông qua: (a) cải thiện không ngừng hệ thống luật pháp, và (b) nâng cao điều kiện kinh tế và xã hội .

         Những tiêu chuẩn nhân quyền VN chấp nhận trong hệ thống pháp lý gồm có các quyền trong các văn kiện sau đây:

-          Các văn bản quốc tế đề cập ở trên và các văn bản quốc tế về tội diệt chủng (1981), loại bỏ kỳ thị chủng tộc (1981), không áp dụng thời tiêu cho các tội ác chiến tranh chống nhân loại (1981), loại bỏ và trừng phạt sự phân biệt chủng tộc (1981), kỳ thị nữ giới (1982), quyền của trẻ em (1990).

-          Điều 50 và chương V (các điều 49-82)  của Hiến pháp VN năm 1992

-          Bộ Hình luật, Bộ Tố Tụng Hình Sự, các luật lệ về trại cải tạo (1961), và về chỉ định cư trú (1997).

-          Các luật về tôn giáo (Pháp lệnh 2005), xuất bản, báo chí, công đoàn lao động, bầu cử quốc hội, hội đồng tỉnh và xã.

         Trong Bạch Thư có nói rằng VN ‘đã và đang tiếp tục xây dựng’ một hệ thống luật pháp bảo đảm đầy đủ nhân quyền, trong đó có Hiến pháp gồm cả một chương nói về nhân quyền và những luật lệ khác (có đến 13000 văn bản luật pháp các loại từ 1986 đến nay, gồm có 40 bộ luật và luật, hơn 120 pháp lệnh, gần 850 nghị định của chính phủ, và 3000 văn bản lập qui của các bộ; riêng năm 2004, đã có 13 đạo luật và 8 pháp lệnh)

         Bạch Thư duyệt xét lại các thành tích Việt Nam thực hiện nhân quyền trong nhiều lãnh vực khác nhau, tương tự như báo cáo hàng năm của Bộ Ngọai Giao Mỹ về tình trạng nhân quyền trong các quốc gia trên thế giới.

         Sau đây là các loại nhân quyền mà Bạch Thư khẳng định về các thành tích tốt đẹp VN đạt được, trong số đó chúng ta có thể bác bỏ một số với các sự kiện trái với sự tuyên bố của chính quyền:

-          (i) Bảo đảm quyền chính trị và dân sự: bầu cử và tranh cử, tham gia điều hành đất nước và xã hội, tự do ngôn luận, báo chí và thông tin, tự do hội họp và lập hội, bình đẳng giữa các sắc tộc, quyền sống, có nhân phẩm, quyền tòan vẹn thân thể, quyền tự do đi lại và cư trú.

-          (ii) Bảo đảm thi hành các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội: quyền được phát triển kinh tế và cải thiện mức sống, quyền y tế và xã hội.

-          (iii) Bảo đảm quyền cho phụ nữ, trẻ em; bảo vệ gia đình, người già và người tàng tật (gồm cả những nạn nhân chất độc màu da cam trong chiến tranh VN).

         VN cũng đồng ý hợp tác với các tổ chức quốc tế về nhân quyền dựa trên căn bản bình đẳng, không can thiệp nội bộ của nhau và tôn trọng lẫn nhau. Tưởng cũng nên đề cập đến Thỏa ước với Mỹ về vấn đề tự do tôn gíao, trong đó VN hứa sẽ đẩy mạnh tự do cho mọi tôn giáo kể cả các giáo hội Tin Lành.

         Trong khi Bạch Thư thừa nhận tính cách tòan cầu (phổ quát) của nhân quyền, thì Bạch Thư vẫn nói tới sự hạn chế là tính phổ quát phải dung hòa với  các đặc thù chính trị, kinh tế, văn hóa  của VN và không quốc gia nào có quyền áp đặt một mẫu mực chính trị, kinh tế và xã hội  đói với nước khác, hoặc dùng nhân quyền như công cụ để can thiệp vào việc nội bộ nước khác, hay dùng áp lực chính trị hoặc quân đội để áp đặt lên người khác.

   Trong ly’ luận này và trong sự lo âu về can thiệp của ngoại bang, ta thấy tư tưởng của nhiều chính trị gia Á châu như Lý quang Diệu, cựu thủ tướng Singapore, và Mahatir, cựu thủ tướng Mã lai; họ đã bóp méo lịch sử và coi thường chính dân tộc họ khi khước từ cho chính dân tộc của họ sự hưởng thụ đầy đủ nhân quyền. Đối với VN, trong quyển sách của chúng tôi: “The Vietnamese Tradition of Human Rights” [Truyền Thống Nhân Quyền Việt Nam] (Univ. of California/Berkeley, 1988) đã minh chứng rõ rệt là tại VN, ngay trong chế độ quân chủ, dù không có dân chủ nhưng nhân quyền được tôn trọng ở mức độ khá cao. Năm 1993 tại Hội nghị của Học viện Aspen giữa hai phái đòan Mỹ và VN thảo luận về việc bỏ cấm vận, Cô Sidney Jones của Human Right Watch đã cho ông Lê Mai, thứ trưởng ngọai giao Việt Nam, xem quyển sách đó và hỏi ‘Liệu chính quyền VN vẫn còn tôn trọng những truyền thống tốt đẹp đó không?’, thì ông Lê Mai đã mời ngay Cô Jones thăm VN để du hành điều tra sự kiện và thời gian sau đó, khi đi dự Hội Nghị Quốc tế về Nhân quyền, ông Lê Mai tuyên bố: “Việt Nam đến Vienna [nơi Hội nghị họp] với quyết tâm của nhân dân và chính quyền Việt Nam đề cao chính nghĩa nhân quyền”.

         Bản Bạch Thư 2005 hình như biểu lộ nhiều lo âu về sự can thiệp của ngọai quốc vào VN bằng chiêu bài nhân quyền. Nhưng Đại sứ Mỹ taị VN đã cảnh cáo các người VN tại Mỹ là không ai được làm bất cứ hành động bất hợp pháp nào ở VN vì chính phủ Mỹ không có chìa khóa để mở cửa nhà tù tại VN. 

      4) Có Cải Tổ Luật Pháp cho có Dân Chủ Không ? 

         Chúng ta có thể định nghĩa một nền dân chủ đích thực là một chế độ trong đó: (i) Chủ quyền tối thượng trong tay nhân dân,  họ có thể thay đổi cấp lãnh đạo cao cấp nhất của đất nước thông qua những cuộc bầu cử đích thực định kỳ, trong đó có sự cạnh tranh thực sự bằng tự do ngôn luận và báo chí, giữa các ứng viên và các nhóm xã hội, và giữa những ý tưởng khác nhau về việc điều hành đất nước; (ii) Chính quyền phải có giới hạn, chứ không phải là một chế độ cai trị độc đóan hay toàn trị, giới hạn trong  ý nghĩa thứ nhất là phải có pháp trị và sự tôn trọng các quyền căn bản của con ngừơi, các quyền đó được bảo vệ bởi một nền tư pháp độc lập ; chính quyền giới hạn trong nghĩa thứ hai, là phải có sự phân lập giữa các ngành của chính quyền để phòng ngừa tình trạng một ngành chính quyền trở thành vừa là cầu thủ đá bóng vừa là trọng tài thổi còi trong vũ đài chính trị.

          Đánh giá chế độ hiện hữu của VN, ta phải nói là chưa có một nền dân chủ: Người dân chưa có thể thay đổi cấp lãnh đạo cao cấp nhất qua cuộc bầu cử trung thực, vì các ứng viên được Đảng Cộng Sản chọn lựa trước, hoặc trực tiếp hoặc thông qua Mặt Trận Tổ Quốc; ngoài ra sự cạnh tranh rất giới hạn hoặc không có, dù dưới hình thức tự do ngôn luận hoặc báo chí hay các vận động bầu cử. Tại VN chưa có nhật báo hoặc báo định kỳ của tư nhân, tất cả đề được điều hành bởi các cơ quan của Đảng và nhà nước. Đối với việc bầu cử vào các chức vụ chính quyền, liệu có thể tin vào lập luận mà chế độ có thể đưa ra là VN có một chế độ dân chủ, bởi vì Quốc Hội chỉ đơn thuần chọn ứng viên cho các chức vụ chủ tịch Quốc Hội, Thủ tướng , Chủ tịch Tòa Án Tối cao v.v.., thủ tục này tương tự  và bình thường như sự chọn lựa các ứng viên Tổng thống hoặc Phó Tổng thống trong các đại hội Đảng Cộng Hòa hoặc Đảng Dân chủ tại Mỹ để ra tranh cử, và các ứng viên này vẫn phải được bầu bởi các đại biểu nhân dân trong Quốc Hội Việt Nam. Nhưng để trả lời lập luận ấy, có thể nói là phân tích cho kỹ, ta thấy là vì không có các ứng viên ngòai Đảng Cộng sản vào các chức vụ cao cấp ấy, và quan trọng hơn nữa, không cho phép sự cạnh tranh thực sự cho một vài ứng cử viên độc lập tranh cử vô Quốc Hội (phần lớn họ bị Mặt Trận Tổ Quốc loại bỏ trong các giai đoạn  tiền bầu cử -- ngay trong cấp địa phương hay đơn vị), cho nên các cuộc bầu cử  vẫn là do độc đảng kiểm soát,  như hàm nghĩa trong câu ‘Đảng cử Dân bầu’, và chưa có dân chủ thực sự.

        Tuy nhiên chúng ta phải nhận thức là dân chủ đòi hỏi các điều kiện tiên quyết về các lãnh vực kinh tế và xã hội: mức sống tối thiểu để dân có được phương tiện sinh sống phải chăng và một trình độ học vấn đủ để biết suy nghĩ các vấn đề chung, thì mới tham gia có ý nghĩa vào các cuộc bầu cử; ngòai ra người dân phải có một đồng thuận tối thiểu về các vấn đề cơ bản của đất nước (nếu không, sẽ xảy ra nội chiến và không có dân chủ). Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa VN đã xây đắp các điều kiện tiên quyết của dân chủ này. Cũng có cởi trói phần nào, và dung túng cho các nhóm xã hôị độc lập hoạt động, như các tổ chức kinh tế hoặc xã hội phi chính phủ. Những nhóm này đã bổ túc cho các thiếu hụt công tác của nhà nước. Thoạt đầu chính phủ muốn kiểm soát họ, nhưng sau đó, luật năm 1992 khuyến khích họ, đặc biệt đối với các tổ chức khoa học và kỹ thuật.

         Trong bộ Dân Luật năm 1995, các tổ chức xã hội này được thừa nhận như những cá thể hoặc chủ thể pháp luật, do đó làm dễ dàng hơn việc các tổ chức vay tiền ngân hàng và việc bảo vệ tài sản cá nhân của hội viên, tài sản ấy được luật pháp tách biệt khỏi tài sản của tổ chức. Hàng trăm tổ chức như vậy được thành lập, đó là nền móng cho dân chủ, tương tự như vai trò của các tổ chức thiện nguyện ở Mỹ, như Alexis de Tocqueville trong quyển sách nổi danh ‘Democracy in America’ [Dân Chủ tại Mỹ]  đã nhận xét. Hiện có một dự thảo luật về các tổ chức thiện nguyện, chi tiết hóa các điều của Bộ Dân Luật, để đăng ký và hợp pháp hóa các tổ chức thiện nguyện, dù rằng chính phủ vẫn muốn hạn chế sự thành lập các tổ chức mới, và đòi hỏi các tổ chức phải báo cáo các hoạt động của họ cho nhà nước.

         Nhưng gần đây, có lẽ một luồng gió mới dân chủ đang thổi vào VN: những đòi hỏi dân chủ của các người tranh đấu đòi nhân quyền và dân chủ trong quần chúng và những lời kêu gọi của một số đảng viên hay nhân viên chính quyền cao cấp đã về hưu. Thí dụ như ông Võ văn Kiệt đã viết 1 số bài báo kêu gọi bầu cử dân chủ trong Đảng và ca tụng 1 số thành viên cuả cấp lãnh đạo Miền Nam trước đây là ái quốc. Có nhiều tập hợp tranh đấu cho dân chủ đã xuất hiện công khai tại Việt Nam. Người anh lớn của VN là Trung Quốc, có Thủ Tướng Ôn Gia Bảo đã tuyên bố tại Đại học Harvard tháng 12 năm 2003 là mục đích tối hậu của Trung Quốc cần nhắm tới là dân chủ, vì sự tôn trọng quyền tự do của nhân dân để theo đuổi hạnh phúc đã đưa đến kết qủa là kinh tế phồn vinh của Trung Quốc và ông ta cam kết là dần dần cho nhân dân Trung Quốc có đày đủ dân chủ -- điều đó cần nhiều năm để trình độ giáo dục được nâng cao hơn. VN có lẽ sẽ quan tâm đến bài học này tại Trung Quốc.

---------------------------------------------------------------

* (Bài tham luận bằng tiếng Anh của luật sư Tạ văn Tài trình bày trước Hội đồng Quan hệ Ngọai giao-- Council on Foreign Relations--  tại New York City ngày 21 tháng 3 năm 2006. Bản tiếng Việt do ông Ngô Văn Ban sơ thảo và luật sư Tài hiệu đính lại)

 


Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam

[Trang nhà] [Về MLNQ] [Luật Nhân Quyềnn] [Tài liệu] [Tin nhân quyền] [Diễn đàn] [Tham gia] [Tải xuống] [Liên kết]