Các Tổ Chức Xă Hội Dân Sự Tại VN  Lên Tiếng Về Hai Vụ Án Tử H́nh Nguyễn Văn Chưởng và Hồ Duy Hải

 

Kính thưa Toàn thể Đồng bào VN trong và ngoài nước và các thân hữu quốc tế

Các tổ chức xă  hội dân sự chúng tôi xin gởi đến toàn thể Đồng bào và Quư vị

Tuyên bố của chúng tôi về hai vụ án tử h́nh đang gây chấn động dư luận và nhức nhối lương tâm.

Xin Quư Đồng bào vui ḷng hưởng ứng chiến dịch cứu hai nạn nhân của nền tư pháp Cộng sản.

Xin giúp phổ biến rộng răi và dịch ra ngoại ngữ để rộng đường dư luận.

Chúng tôi chân thành cảm ơn.

Các tổ chức xă hội dân sự tại VN kư tên vào Tuyên bố

 

 

Kính gởi

- Toàn thể Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước

- Chính phủ và Quốc hội các quốc gia dân chủ

- Các tổ chức nhân quyền quốc tế và các hăng thông tấn hoàn vũ

- Các cơ quan tư pháp tại các nước văn minh.

Từ 6-7 năm nay, có hai tù nhân là Nguyễn Văn Chưởng (sn 1983) và Hồ Duy Hải (sn 1985), bị ṭa án sơ thẩm lẫn phúc thẩm Việt Nam kết án tử h́nh, đă liên tục kêu oan và sống trong khắc khoải. Gia đ́nh họ cũng phải bỏ công ăn việc làm, thậm chí tán gia bại sản để đi đ̣i công lư cho người thân trong đau khổ và tuyệt vọng. Nỗi bất hạnh tột cùng này lên đến đỉnh điểm khi bản án tử được thông báo sẽ thi hành cuối năm nay (đối với NVC) và có thể đầu năm tới (đối với HDH). Tin tức này cũng khiến công luận và báo chí đ̣i xét lại toàn bộ hai vụ án, v́ có vô số điều phi lư, mâu thuẫn, mờ ám, oan ức do chính các luật sư, gia đ́nh lẫn công luận nêu ra.

1- Sự kiện

a- Vụ án Nguyễn Văn Chưởng.

Đây là việc 1 thiếu tá công an ở Hải Pḥng bị giết chết đêm 14-7-2007. Vụ án có 3 bị cáo gồm Vũ Đoàn Trung, ở Hải Pḥng, nhận tội, 23 năm tù giam; Đỗ Văn Hoàng, ở Hải Pḥng, không nhận tội, tù chung thân; và Nguyễn Văn Chưởng, ở Hải Dương (bị Vũ Đoàn Trung tố cáo là chủ mưu), không nhận tội, tử h́nh.

Tháng 7 năm ấy, bị cáo Nguyễn Văn Chưởng cùng với em trai đang lao động ở Hải Pḥng. Tuy nhiên, cả 2 không có mặt tại đó vào thời điểm xảy ra án mạng (v́ họ thường về thăm nhà ở thôn 1, xă B́nh Dân, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương mỗi cuối tuần). Nhiều người thân lẫn người dân trong thôn đă làm chứng về sự có mặt của 2 anh em đêm 14-7-2007, xa phạm trường tới 40km. Thế nhưng lời khai của các nhân chứng bị cơ quan điều tra hoặc xuyên tạc (như bà Nguyễn Thị Bích, mẹ bị cáo) hoặc dùng tra tấn để phải rút lại (như chị Nguyễn Thị Bảy, vợ bị cáo hoặc nhiều người dân trong làng). Các nhân chứng ấy lại không được ghi lời khai trong bản án cũng chẳng được triệu tập đến ṭa trong ngày xử.

Nhiều t́nh tiết cho thấy công an đă áp đặt tội cho Nguyễn Văn Chưởng ngay từ khi khởi sự điều tra. Đó là bắt giam Nguyễn Trọng Đoàn (em của Chưởng) khi anh này đem đơn của mẹ kêu oan cho con (10-08-2007), sau đó kết án anh 2 năm tù v́ “che giấu tội phạm”. Đó là tra tấn dă man bị cáo Chưởng và nhiều chứng nhân để hủy bằng cớ ngoại phạm của anh. Đó là trong hồ sơ vụ án, giấy tờ giám định thương tích của Chưởng, lời khai của nhiều nhân chứng không có; chữ kư của Đoàn bị giả mạo; lời khai của hai bị cáo Vũ Toàn Trung và Trần Thị Lan Phương (người yêu) rất mâu thuẫn nhau; yêu cầu của Chưởng xin được khôi phục các cuộc điện thoại của ḿnh tối ngày 14 và sáng ngày 15-07-2007 cũng bị lờ hẳn. 

Ngoài ra, cơ quan điều tra c̣n gây khó khăn và chậm trễ trong việc cấp giấy chứng nhận người bào chữa (hơn 3 tháng so với qui định là 3 ngày) khiến nhiều cuộc thẩm vấn bị cáo và nhiều biên bản lời khai không có luật sư tham dự (hay nếu có th́ công an chẳng giới thiệu là luật sư). Đến ngày xét xử, ṭa án chẳng triệu tập nhân chứng nào cũng không cho các bị cáo đối chất với nhau. Chưởng kêu bị tra tấn nhục h́nh th́ Hội đồng xét xử bác bỏ v́ cho rằng trong biên bản không ghi điều đó.

Nhận thấy vụ án bất công, gia đ́nh thuê luật sư bào chữa th́ được trả lời: “VN không có luật! Nếu thực hiện đúng luật th́ chúng tôi có thể căi cho ông. Luật như các nước khác th́ chúng tôi căi được c̣n VN không có luật nào cả. Luật của ‘chúng nó’ nên chúng tôi chịu thua” (RFA 3-12-2014). Sau đó, thấy bản án oan ức, thân phụ bị cáo cho biết: đă làm “đơn gửi văn pḥng Chủ tịch nước hàng ngàn lá. Tôi cũng đă lên tận nhà riêng ông Trương Tấn Sang, đă gửi kể cả đơn bằng máu mà báo Người Đưa Tin chụp tung lên mạng… nhưng hiện nay không có phản hồi nào (RFA 3-12-2014). Hiện cả gia đ́nh và nạn nhân không làm đơn xin ân xá mà chỉ kêu oan vô tội.

b- Vụ án Hồ Duy Hải.

Đây là vụ 2 nữ nhân viên bưu điện bị hăm hiếp, giết chết đoạn cướp của ngày 14-01-2008 ở bưu cục Cầu Voi, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An mà chẳng có ai chứng kiến. Khoảng 3 tháng sau, cơ quan công an điều tra tỉnh bắt sinh viên Hồ Duy Hải. Rồi cả hai cấp ṭa sơ thẩm và phúc thẩm đều tuyên án tử h́nh cho anh về các tội “giết người”, “cướp tài sản”.

Tuy trong các bản khai, Hồ Duy Hải có thừa nhận tội lỗi, nhưng trước hai ṭa và khi gặp thân nhân, anh đều kêu oan và cho biết ḿnh đă bị tra tấn dă man nên phải kư nhận những bản khai viết sẵn. Trong phiên sơ thẩm ngày 28-11-2008, luật sư bào chữa Nguyễn Văn Đạt đă đưa ra đến 41 điểm sai phạm trong quá tŕnh tố tụng và điều tra xét hỏi, như không có vật chứng (các dấu vân tay tại phạm trường chẳng phải là của bị cáo, con dao và tấm thớt gây nên cái chết cho 2 nạn nhân là đồ đi mua ở chợ về sau, mẫu máu và tóc lại để tới 5 tháng sau đó mới xét nghiệm), cũng không có nhân chứng xác nhận bị cáo có mặt tại phạm trường. Không chi tiết nào trong 41 chi tiết này được cơ quan điều tra giải đáp. Đến phiên xử tiếp, luật sư chỉ định Nguyễn Thành Quyết đă không bào chữa, lại c̣n “xin nhận tội” và “xin được hưởng” án chung thân giùm cho bị cáo !?!

Trong đơn đề nghị giám đốc thẩm viết ngày 11-01-2012, luật sư Trần Hồng Phong cũng chỉ ra vô số điểm mâu thuẫn (đặc biệt các lời khai của nhiều nhân chứng trong bút lục đă bị sửa chữa mà chẳng có chữ kư xác nhận của họ) để rồi nhận định: “Việc xét xử phiến diện, thiếu khách quan, bất chấp kết quả giám định khoa học, bỏ qua t́nh tiết ngoại phạm của bị cáo; kết luận trong bản án không phù hợp với các t́nh tiết khách quan của vụ án; vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm sai lệch hồ sơ vụ án; áp dụng pháp luật không đúng, xét xử sai tội danh”.          

Ngoài ra, sau khi vụ án xảy ra, nhiều tờ báo đă có bài viết, nêu nhiều t́nh tiết cho thấy hung thủ có thể là một kẻ khác và đă được cơ quan điều tra lấy lời khai ngay từ khi mới phát hiện vụ việc (như Thanh Niên ngày 16-01-2008; Người Lao Động ngày 17-01-2008). Thế mà toàn bộ các t́nh tiết ấy đă không nằm trong hồ sơ. Đó là chưa kể có mật lệnh cấm nhiều tờ báo không được viết ǵ về vụ Hồ Duy Hải !?!

Sau khi có bản án tử h́nh, bị cáo Hải và gia đ́nh không viết đơn xin ân xá (dù có bị ép) gửi đến Chủ tịch nước mà chỉ liên tục kêu oan v́ họ cho rằng anh không có tội. Sáu năm qua, gia đình đã gửi đơn khắp nơi đề nghị giám đốc thẩm để giải oan cho anh, nhưng đều chỉ nhận được trả lời là “đã đúng người đúng tội” hay “hết thẩm quyền xử lư vụ án”. Bà mẹ c̣n t́m đến Quốc hội, nhà riêng của các lănh đạo cao cấp để kêu cứu nhưng vô vọng. Thậm chí bà c̣n bị dọa đổ keo vào miệng để không la được nữa, c̣n d́ ruột của Hải th́ bị công an côn đồ đánh cho thâm tím tay chân khi hai bà căng băng-rôn biểu t́nh trước cổng Ṭa án tối cao ngày 28-11-2014.

2- Nhận định và tuyên bố

Trước những vụ việc trên đây, các tổ chức xă hội dân sự nhận định và tuyên bố:

a- V́ tại Việt Nam chỉ có tam quyền phân công chứ không phân lập, nền tư pháp hoàn toàn nằm dưới sự lănh đạo tuyệt đối, chi phối toàn diện của đảng Cộng sản, nhằm bảo vệ sự tồn tại của đảng bằng mọi giá chứ không nhắm bảo vệ tính mạng và quyền lợi người dân, nên nhiều vụ án oan khốc đă xảy ra xổ toẹt luật pháp, thách thức công luận, với những bức cung, nhục h́nh, với cáo trạng dối, chứng cứ giả, với âm mưu cá nhân và ư đồ tập thể... Ở hai vụ án trên, hai chàng thanh niên bị bắt một cách t́nh cờ (v́ không có mặt tại hiện trường), kết tội chỉ bằng "lời khai" là chủ yếu, không cần những vật chứng, lư chứng, nhân chứng có sức thuyết phục. Cũng như “nhà nước được đẻ ra từ ṇng súng”, lời khai đó đă  được đẻ ra từ đấm đá đ̣n vọt, theo thói "không có tội th́ đánh cho có, có tội th́ đánh cho chừa". Biện pháp dùng tra tấn, nhục h́nh để mớm cung, ép cung là chuyện chẳng ai lạ ở VN, khi mà cơ quan điều tra luôn cho ḿnh có quyền hành động bí mật, loại bỏ vai tṛ luật sư trong tiến tŕnh thẩm vấn.

b- Việc công an nhất quyết cho hai bị cáo là thủ phạm dù giữa bản thân và gia đ́nh họ với công an chẳng có tư thù, điều ấy có thể lư giải bằng hai cách. Một là sau thời gian không t́m ra thủ phạm (vụ HDH) hoặc không t́m ra bằng chứng nơi kẻ bị coi là thủ phạm (vụ NVC), rồi bị áp lực đạt chỉ tiêu phá án để bảo vệ thành tích của đơn vị, công an đă bắt đại một người nào đó để kết tội hay kết tội đại một người nào đó đă bắt. Chẳng may HDH và NVC trở nên vật tế thần. Hai là công an biết rơ thủ phạm thật của vụ việc, nhưng thủ phạm này lại là kẻ có quyền hoặc có tiền và đă biết dùng tiền hoặc quyền để khuynh đảo công lư. Việc đề nghị khởi tố hai nạn nhân với án tử h́nh nếu thành công th́ vừa cứu thoát người được che chở vừa tránh hậu họa, v́ một lư do nào đó, thủ phạm đích thực bị bắt hay ra đầu thú, sẽ khiến công an bị kết tội gây án oan sai như vụ "tù oan 10 năm Nguyễn Thanh Chấn".

c- Khi hồ sơ điều tra chuyển lên viện kiểm sát, viện này có hai chọn lựa: hoặc miễn tố 2 bị cáo với lư do không đủ chứng cớ, hoặc giúp công an bảo vệ thành tích phá án bằng cách khởi tố họ dựa trên biên bản điều tra. Kiểm sát và công an là hai cơ quan cùng thuộc hệ thống tư pháp, dưới quyền chỉ đạo của cùng một đảng, nghĩa là có quan hệ "người nhà". Cho nên việc kiểm sát giúp công an bảo vệ thành tích phá án là điều dễ hiểu. Khi hồ sơ được viện kiểm sát chuyển sang ṭa án để xét xử, quan hệ "người nhà" giữa ṭa án và công an cùng viện kiểm sát lại được vận dụng. Ṭa án cũng có hai chọn lựa, hoặc xét thấy không đủ yếu tố buộc tội nên trả nội vụ về công an điều tra lại, hoặc kết án bị cáo theo hồ sơ điều tra. Thực tế, việc chuyển hồ sơ về lại công an chỉ mất th́ giờ chứ kết quả điều tra lại thường không thay đổi, nên khuynh hướng của ṭa án là căn cứ trên hồ sơ của công an để xét xử và luận tội. Mà một khi chọn giải pháp kết án th́ cũng do lo sợ hậu quả là sẽ có thể bị khuyết điểm xử sai, mất thành tích công tác, nên ṭa án sẽ đồng lơa với công an và kiểm sát kết án tử h́nh cho xong chuyện, chưa kể là c̣n hưởng mối lợi từ thủ phạm thật đang có quyền hoặc có tiền. Rồi để chắc chắn bản án không bị bác bỏ, ṭa sơ thẩm đă hội ư trước với ṭa phúc thẩm để thống nhất bản án. Việc này mang tính cách "thông đồng", trái với nguyên tắc độc lập của việc xét xử. Nhưng đó là tŕnh tự thông thường diễn ra đằng sau các vụ án quan trọng của hệ thống tư pháp Việt Nam.

d- Do đó chúng tôi mạnh mẽ yêu cầu nhà cầm quyền CSVN phải xét lại toàn bộ hai vụ án (và nhiều vụ án tử h́nh khác nữa). Không thể chấp nhận việc bắt người vô tội chết thế cho thủ phạm đích thật hoặc đem sinh mạng dân đổi lấy thành tích cho ngành và giữ lấy quyền lực cho đảng. Chúng tôi cũng kêu gọi quốc dân và quốc tế ư thức rơ ràng để hợp lực xóa bỏ t́nh trạng một nhóm người chiếm độc quyền cai trị cả nước, tự tung tự tác hơn nửa thế kỷ, đang sinh ra những đám mafia thao túng tất cả các lănh vực, từ kinh tế, văn hóa, chính trị đến tư pháp, bất chấp đạo đức lẫn công lư, lương tâm lẫn t́nh người. Nếu ai cũng im lặng mà bỏ qua th́ rồi có thể một ngày nào đó, bất cứ công dân Việt vô tội nào cũng sẽ là một nạn nhân như Nguyễn Văn Chưởng và Hồ Duy Hải. Chúng tôi cũng kêu gọi “Các bà mẹ bà vợ bị oan ức, hăy đoàn kết lại!” (nhưCác bà mẹ Thiên An Môn” bên Tàu) để đứng lên tranh đấu, ngơ hầu bảo vệ mạng sống và tự do của con, của chồng ḿnh, cứu bao nhiêu nạn nhân vô tội có thể bị nền tư pháp mafia giết trong tương lai.

 

Làm tại Việt Nam ngày 10 tháng 12 năm 2014, Ngày Nhân quyền Quốc tế lần thứ 66.

Các tổ chức xă hội dân sự đồng kư tên:

 

1- Bach Dang Giang Foundation. Đại diện: Thạc sĩ Phạm Bá Hải

2- Diễn đàn Xă hội Dân sự. Đại diện: Tiến sĩ Nguyễn Quang A

3- Giáo hội Cao Đài. Đại diện: Các CTS Hứa Phi, Nguyễn Bạch Phụng, Nguyễn Kim Lân.

4- Giáo hội Liên hữu Lutheran Việt Nam-Hoa Kỳ. Đại diện: Mục sư Nguyễn Hoàng Hoa

5- Giáo Hội PGHH Thuần túy. Đại diện: Hội trưởng Lê Quang Liêm

6- Hiệp hội đoàn kết Công - Nông Việt Nam. Đại diện: Ông Nguyễn Mai.

7- Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo Việt Nam. Đại diện: Ông Nguyễn Bắc Truyển.

8- Hội Anh em Dân chủ. Đại diện: Ls Nguyễn Văn Đài

9- Hội Bảo vệ Quyền tự do tôn giáo. Đại diện: Cô Hà Thị Vân.

10- Hội Bầu bí Tương thân. Đại diện: Ông Nguyễn Lê Hùng

11- Hội Cựu Tù nhân Lương tâm Việt Nam. Đại diện: Bác sĩ Nguyễn Đan Quế

12- Hội Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam. Đại diện: Cô Huỳnh Thục Vy

13- Hội thánh Mennonite Chuồng ḅ. Đại diện: Ms Nguyễn Mạnh Hùng và Ms Lê Quang Du.

14- Khối Tự do Dân chủ 8406. Đại diện: Kỹ sư Đỗ Nam Hải.

15- Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền. Đại diện: Linh mục Phan Văn Lợi.

16- Phong trào Liên đới Dân oan Tranh đấu. Đại diện: Bà Trần Ngọc Anh.

17- Tăng đoàn Giáo hội PGVNTN. Đại diện: Ḥa thượng Thích Không Tánh

18- Văn pḥng Công lư Ḥa b́nh DCCT Sài G̣n. Đại diện: Linh mục Đinh Hữu Thoại.

Hải ngoại

19- Đài + báo Việt Nam Tự Do. Đại diện: Giáo sư Vương Kỳ Sơn.

20- Liên mạng truyền thông Báo Động. Đại diện: Ông Huỳnh Tâm

21- Ủy ban Yểm  trợ Khối 8406 New Orleans, HK. Đại diện: Giáo sư Vương Kỳ Sơn.

 

Trở lại trang chính


Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam

[Trang nhà] [Về MLNQ] [Luật Nhân Quyềnn] [Tài liệu] [Tin nhân quyền] [Diễn đàn] [Tham gia] [Tải xuống] [Liên kết]