Kháng Thư Số 6 Của Khối 8406
Gồm 1.733 Chiến sĩ Hoà b́nh và hàng vạn Công dân quốc nội đấu tranh
cho Tự do Dân chủ tại Việt Nam, về việc Nhà cầm quyền CSVN đàn áp
thô bạo các Công dân v́ lư do tôn giáo và chính kiến chỉ trong thời
gian 2 tháng gần đây nhất.
Việt Nam, ngày 07 tháng 7 năm 2006
I. Căn cứ vào:
I. 1- Thông báo khẩn cấp ngày 04-05-2006, Bản phúc tŕnh ngày
28-5-2006, Bản tường tŕnh ngày 07-06-2006 và Thông báo khẩn cấp
ngày 29-06-2006 của Mục sư Nguyễn Công Chính, quản nhiệm các Hội
thánh Tin lành Mennonite cộng đồng các Dân tộc tại Tây nguyên về
việc Công an CSVN phạt tiền buộc chủ nhà đuổi Mục sư không cho cư
trú và sách nhiễu, thẩm vấn, khủng bố gia đ́nh Mục sư v́ Mục sư
truyền đạo Tin lành ở Tây Nguyên;
I. 2- Thông báo khẩn cấp ngày 11-06-2006 của Mục sư Nguyễn Công
Chính và Thư kư Y-Djik, Đại diện Hội đồng Tin lành Mennonite Tây
nguyên về việc Công an bắt các Tín hữu Tin Lành bỏ đạo và bắt giam
Chấp sự đạo Tin lành;
I. 3- Văn thư ngày 20-6-2006 của Ông Nguyễn Trung Tôn, Đại diện Hội
thánh Phúc Âm Toàn Vẹn tại xă Thiệu Viên, huyện Thiệu Hóa, tỉnh
Thanh Hóa;
I. 4- Tường tŕnh ngày 21-6-2006 của các Thành viên 8406 tỉnh Thái
B́nh;
I. 5- Quyết định số 199/QĐ-UBND ngày 16-01-2006 của UBND Sài G̣n (tp
HCM) do ông Phó chủ tịch UBND Nguyễn Thành Tài kư và Quyết định số
627/QĐ-UBND ngày 21 tháng 6 năm 2006 của UBND quận 3, Sài G̣n do ông
Chủ tịch UBND Trịnh Văn Th́nh kư đă cưỡng chế Công dân Đỗ Nam Hải
phải chịu phạt 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng VN) ;
I. 6- Nguồn tin của Khối 8406 từ Hà Nội ngày 01-7- 2006.
II. Theo 6 nguồn thông tin trên, th́:
II. 1- Mục sư Nguyễn Công Chính, quản nhiệm các Hội thánh Tin lành
Mennonite cộng đồng các sắc tộc tại Tây nguyên, thành viên Khối
8406, đă bị Chính quyền tịch thu Sổ Hộ khẩu và các giấy tờ tuỳ thân
từ năm 1999 cho đến nay v́ Mục sư truyền đạo Tin lành tại Tây Nguyên,
và từ ngày Nhà cầm quyền CSVN tỉnh Kon-Tum ủi sập Nhà nguyện Hội
thánh Tin lành Mennonite Kon-Tum lần thứ 2 ngày 16-01-2004 (cùng lúc
cũng ủi sập đến 400 (bốn trăm) Nhà nguyện khác) cho đến nay, gia
đ́nh Mục sư Chính đă phải t́m chổ tạm trú 23 lần. Đi đến đâu, chỉ
không đến 02 tháng là Công an CSVN lại cưỡng ép, hù dọa chủ nhà đuổi
gia đ́nh Mục sư đi. Từ ngày 23-05-2005 đến nay, Công an CSVN phường
Hoa Lư, Pleiku đă buộc chủ nhà là vợ chồng anh Nguyễn Thành Sơn, số
524 Cách Mạng Tháng 8, phường Hoa Lư, Pleiku đuổi gia đ́nh Mục sư
Chính đến 51 lần, để Mục sư Chính không thể tiếp tục truyền đạo Tin
Lành tại Tây Nguyên nữa.
II. 2- Từ năm 2001 đến nay, rất nhiều Mục sư, Truyền đạo, Chấp sự,
Tín hữu Tin Lành đă bị Công an - Bộ đội CSVN vu khống ghép tội theo
Tin lành Đê-Ga và bắt bỏ tù hàng ngàn Giáo sĩ và Tín hữu. Rất nhiều
Hội thánh Tin lành Dân tộc ít người Tây Nguyên đă bị đàn áp, đánh
đập, bỏ tù và buộc phải giải tán không cho sinh hoạt bày tỏ niềm tin
của ḿnh. Nhiều gia đ́nh gặp khó khăn trong khi thân nhân ở tù oan,
cha xa con, vợ xa chồng, có quá nhiều trường hợp rất thương tâm.
Những cảnh Công an - Bộ đội CSVN bố ráp nửa đêm, vào nhà bịt mắt bắt
Dân dẫn đi, trở thành nỗi kinh hoàng thường xuyên của các cộng đồng
Tín hữu Tin Lành các Dân tộc Tây Nguyên, một loại bạo quyền bất chấp
đạo lư, lạnh lùng vô cảm khống chế đàn áp họ suốt 31 năm qua.
Một bằng chứng điển h́nh gần đây nhất là trường hợp Chấp sự Đạo Tin
Lành Ralan Punh tại Plei-Blo, xă A-Đơk, Huyện Đak-Đoa, tỉnh Gia Lai:
Ngày 01-04-2004 Anh đă chạy trốn vào rừng v́ Công an truy đuổi vu
khống tội theo Tin Lành Đê-Ga. Ngày 04-01-2005 bị bắt và giam tù tại
T20, tỉnh Gia Lai. Ngày 05-05-2005 được trả tự do về đoàn tụ với gia
đ́nh. Ngày 13-05-2006 Anh tổ chức Hội thánh cầu nguyện tại nhà. Công
an Huyện Đak-Đoa cho việc theo Tin Lành Mennonite là “trái phép”
(?). Ngày 18-05-2006 và ngày 08-6-2006, Công an huyện Đak-Đoa kết
hợp Nhà cầm quyền xă A-Đơk làm việc tại UBND xă A-Đơk với Chấp sự
Ralan Punh, lần trước buộc Chấp sự Ralan Punh kư giấy cam kết bỏ Đạo,
lần sau buộc kư giấy cam kết giải tán Hội Thánh tại Plei-Blo. 6 h
sáng ngày 11-06-2006, khoảng 20 Công an Bộ đội kết hợp với Nhà cầm
quyền CSVN xă A-Đơk xông vào giải tán Hội Thánh khi Hội Thánh đang
cầu nguyện sáng Chúa nhật (11-06-2006), rồi c̣ng tay Chấp sự Ralan
Punh bỏ lên xe Jeep đem về đồn công an Huyện Đak-Đoa và cho đến ngày
11-6-2006 Mục sư Chính viết Thông báo khẩn cấp, Hội thánh và Gia
đ́nh đều chưa biết tin tức, mặc dù Chấp sự Ralan Punh không vi phạm
bất cứ điều luật nào, ngoài việc theo và truyền Đạo Tin Lành mà thôi.
II. 3- Chúa nhật (CN) 09-4-2006, khi cả Hội thánh Phúc âm Toàn vẹn
tại xă Thiệu Viên, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa đang nhóm lại như
thường lệ, th́ Công an, Ban Văn hóa xă và các tổ chức đoàn thể trong
xă đến ngăn trở và bắt tất cả các tín đồ tới UBND xă, yêu cầu Hội
thánh không được tổ chức lễ Phục sinh CN 16-4-2006. Do vậy CN
16-4-2006 Hội thánh phải tổ chức lễ Phục sinh ở nơi kín đáo khác.
- CN 23-4 và CN 30-4-2006 khi Hội thánh đang cầu nguyện th́ Nhà cầm
quyền CSVN lại đến bắt tất cả Tín đồ lên UBND xă 2 lần nữa như CN
09-4-2006.
- CN 07-5-2006, Mục sư Hồ Đức Tuấn, đại diện cho Giáo hội Phúc âm
Toàn vẹn, đến cầu nguyện cùng Hội thánh, trong khi mọi người đang
hát Thánh ca th́ Công an và đại diện các đoàn thể của xă đến giải
tán các Tín hữu. Họ đă dùng những lời lẽ thô tục nhục mạ và bắt mọi
Tín hữu lên trụ sở xă, tới 13 giờ 00 mới thả về.
- CN 14-5-2006, anh Nguyễn Trung Tôn và Nguyễn Viết Thắng tới gia
đ́nh chị Minh để cầu nguyện và học Kinh Thánh chung, th́ bị Ban Văn
hóa xă mời cả 05 Tín hữu đến văn pḥng UBND xă để nghe giải thích
rằng ở xă Thiệu Viên không ai được phép theo và sinh hoạt đạo Tin
Lành, bắt các Tín hữu viết tường tŕnh rồi mới cho về.
- Ngày 26-5-2006, chị Minh đă gửi đơn lên UBND xă xin đăng kư địa
điểm cầu nguyện mỗi CN, nhưng không được chấp nhận. Đến CN
28-5-2006, Hội thánh đang cầu nguyện tại nhà chị Minh th́ tất cả bị
mời lên xă lấy lời khai xong rồi mới cho về.
- CN 04-6-2006, khi cả Hội thánh đang cầu nguyện, th́ Công an xă đến
bắt tất cả Tín hữu lên UBND xă. Trên đường đi Công an đă đánh đập
các Tín đồ như chị Lê, chị Đức. Trong đó có chị Nhàn bị đánh chảy
máu, có thương tích. Họ đă giữ 4 người, không cho ăn trưa, sau đó
lập biên bản tịch thu 4 xe đạp, và cấm các chị không được đến nhà
chị Minh để thờ phượng Chúa.
- CN 11-6-2006, các Tín đồ đă không dám họp nhau cầu nguyện v́ khiếp
sợ.
- CN 18-6-2006, lúc 8.30 sáng, trong khi bà Lan, chị Nhàn, các anh
Nguyễn Trung Tôn, Hắc Ngọc Sĩ đang ngồi uống nước tại nhà chị Minh,
đợi Hội thánh đến cầu nguyện, th́ Công an xă đưa tất cả Tín hữu lên
UBND xă, giữ các Tín hữu ở đó không cho ăn cơm trưa, đến 4.30 chiều,
Công an thẩm vấn, rồi ông Nguyễn Mạnh Ḥe, trưởng Công an xă, đă
đánh hai anh Tôn và Sĩ bị thương nặng, cưỡng bức mọi Tín hữu kư vào
biên bản hứa không đến nhà chị Minh sinh hoạt đạo nữa. Tới 6 giờ 00
chiều họ mới thả các Tín hữu về. Ngoài Phó Công an xă Bùi Công Minh,
các Công an tham gia đàn áp Tín hữu là Trần Kiệm, Hùng, Thực, Vinh,
Nam.
II. 4- 50 Công dân Thái B́nh đă kư tên ngày 04-6-2006 trở thành
Chiến sĩ Hoà b́nh của Tuyên Ngôn 8406, từ ngày 13-6-2006 có 6 Công
dân trong số 50 Công dân ấy là Phạm Văn Doan, Dương Đại Dương, Phạm
Văn Hoạch, Nguyễn Thị Kỹ, Trịnh Thị Lữ, Vũ Đức Nôm đă bị Công an các
cấp thuộc tỉnh Thái B́nh triệu tập, khủng bố, kết tội họ là đă “làm
mất trật tự an ninh của nhà nước”. Ngày 30-6-2006, Công an đă cho 3
côn đồ đến trước cửa nhà Ông Trần Anh Kim - một trong các Đại diện
lâm thời Khối 8406 - tại số 502, tổ 10, phố Trần Hưng Đạo, phường
Quang Trung, thị xă Thái B́nh, để quậy phá và ngăn chặn Dân đến gặp
ông Trần Anh Kim, trong khi có 5 Công an ngồi canh chừng chỉ cách đó
khoảng 50 mét.
II. 5- Công an Phường 6, Quận 3, số 18 đường Vơ Văn Tần, Quận 3, lập
biên bản giữ Ông Đỗ Nam Hải, một trong các Đại diện lâm thời Khối
8406, từ 5 giờ chiều ngày 8-12-2005 đến 5 giờ chiều ngày 9-12-2005
mới được thả, v́ Ông Hải đă thuê sao chụp 12 sách “HĂY TRƯNG CẦU DÂN
Ư” do ông Hải biên soạn, tại tiệm photocopy Lộc đường Hai Bà Trưng,
Tân Định, quận I. Ông Hải c̣n bị triệu tập làm việc với Công an
nhiều ngày v́ cùng một lư do. Căn cứ điểm a, khoản 3 , điều 18 Nghị
định 31/2001/NĐ-CP ngày 26-6-2001 của Nhà cầm quyền CSVN, ngày
16-1-2006, ông Nguyễn Thành Tài, Phó chủ tịch UBND thành phố Sài G̣n,
đă kư Quyết định số 199/QĐ-UBND phạt Ông Hải 20.000.000 (hai mươi
triệu) đồng Việt Nam, v́ Ông đă “phát hành hoặc tàng trữ nhằm mục
đích lưu hành xuất bản ấn phẩm thuộc loại không được phép lưu hành
hoặc đă có quyết định thu hồi, tịch thu”, buộc ông Hải phải thi hành
trong 10 ngày. Nhưng Ông Hải cho rằng Quyết định này đi ngược lại
tinh thần của Hiến pháp và Pháp luật Việt Nam, nên cho đến nay, tức
gần 6 tháng sau, Ông Hải vẫn không chịu nộp phạt, bất chấp những
biện pháp, đe dọa của Nhà cầm quyền CSVN trong nhiều ngày làm việc
tại Công an quận Phú Nhuận.
- Chiều 03-7-2006, Ông Hải bị triệu tập đến trụ sở UBND phường 9 để
ông Chủ tịch phường trao cho kỹ sư Hải Quyết định số 627/QĐ-UBND, do
ông Chủ tịch UBND quận 3 Trịnh Văn Th́nh kư ngày 21-6-2006 nhằm
cưỡng chế Kỹ sư Đỗ Nam Hải phải chịu phạt 20.000.000 (hai mươi triệu)
trong thời hạn 10 ngày, do kỹ sư Hải đă không tự nguyện thi hành
biện pháp xử phạt hành chính theo quyết định số 199/QĐ-UBND do ông
Nguyễn Thành Tài kư ngày 16-01-2006 nói trên. Một lần nữa kỹ sư Hải
lại ghi vào phần cuối Quyết định 627/QĐ-UBND: “Tôi cương quyết phản
đối Quyết định 199/QĐ – UBND, ngày 16/1/2006, của Ủy ban nhân dân
T.p Hồ Chí Minh, do ông Nguyễn Thành Tài – Phó chủ tịch kư, và Quyết
định 627/QĐ – UBND, ngày 21/6/2006, do ông Trịnh Văn Th́nh - Chủ
tịch ủy ban (UBND quận 3) kư. Cả 2 Quyết định trên đều vi phạm trắng
trợn các quyền căn bản của con người. Đặc biệt là các quyền Tự do
thông tin và Tự do ngôn luận. Một lần nữa tôi khẳng định : Tôi cương
quyết không đóng phạt, dù chỉ là 1 đồng! Bởi v́, nếu tôi chấp nhận
đóng phạt là khuyến khích cho những việc làm tội lỗi, sai trái của
các cấp cầm quyền ở Việt Nam”!
II. 6- 6 giờ 30 sáng 30-6-2006, đang khi hàng chục công an vây quanh
nhà Ông Nguyễn Thanh Giang, th́ 12 Công an thuộc Bộ, Thành phố,
huyện, xă … ập vào đọc lệnh khám nhà do thượng tá Đoàn Hữu Châu, Phó
trưởng công an huyện Từ Liêm kư, Chủ tịch huyện Từ Liêm Nguyễn Văn
Chí ghi : “Đồng ư để công an huyện thi hành quyết định khám xét hành
chính”, rồi lục soát và tịch thu 33 cuốn sách “Nhân quyền và Dân chủ
ở Việt Nam”, dày 326 trang, là tập hợp các bài viết của ông liên
quan đến vấn đề nhân quyền và dân chủ ở Việt Nam. Ông Giang tuyên bố
không chịu thi hành quyết định này v́ đây là một quyết định hoàn
toàn không đúng. Ông cho rằng Ông không hề xuất bản sách nên Ông
không vi phạm luật xuất bản, v́ sách không ghi nơi xuất bản, không
bán, mà được ghi rơ: “Tủ sách gia đ́nh”. Theo ông, đây chỉ là tập
hợp những bài viết được đóng b́a để lưu lại cho con cháu, họ hàng
làm một kỷ niệm đẹp và biếu tặng một số bạn bè quan tâm đến vấn đề
Nhân quyền và Dân chủ ở Việt Nam. Ông đă ghi vào biên bản của Công
an như sau: “Nhận thức rằng việc làm này vi phạm pháp luật, hiến
pháp, xúc phạm danh dự công dân và bôi nhọ nhà nước ta, nhân dân ta,
tôi đă kiên quyết chống lại…, nhưng 12 công an đă bức hiếp tôi”.
III. Chúng tôi nhận thấy: 6 việc làm trên đây của Nhà cầm quyền CSVN
chỉ trong 2 tháng gần đây nhất, (trong số hàng ngàn vụ đàp áp khác
về thông tin ngôn luận và về tôn giáo suốt 31 năm nay) đă vi phạm
đặc biệt nghiêm trọng các Văn bản Công pháp nền tảng bậc nhất sau
đây:
III. 1- Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc năm
1948, Việt Nam đă xin được tham gia năm 1977:
- Điều 18: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, nhận thức và tôn
giáo, quyền này bao gồm… quyền tự do, hoặc một ḿnh hoặc trong cộng
đồng với những người khác, tại nơi công cộng hoặc riêng tư, thể hiện
tín ngưỡng hay tôn giáo của ḿnh bằng cách truyền giảng, thực hành,
thờ phụng và tuân thủ các nghi lễ”.
- Điều 19: “Ai cũng có quyền tự do bày tỏ quan niệm và tự do phát
biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp v́
những quan niệm của ḿnh, và quyền t́m kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến
tin tức và ư kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên
giới quốc gia”.
III. 2- Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị được Liên
Hiệp Quốc biểu quyết năm 1966, mà Việt Nam đă xin được tham gia năm
1982:
- Điều 18: “1- Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và
tôn giáo. Quyền tự do này bao gồm tự do có hoặc theomột tôn giáo
hoặc tín ngưỡng do ḿnh lựa chọn, tự do bày tỏ tín ngưỡng hợc tôn
giáo một ḿnh hợc trong tập thể với nhiều người khác, một cách công
khai hợc thầm kín dưới h́nh thức thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và
giảng đạo. 2- Không một ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến
quyền tự do lựa chọn một tôn giáo hoặc tín ngưỡng”.
- Điều 19: “1- Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của ḿnh mà
không bị ai can thiệp vào. 2- Mọi người có quyền tự do ngôn luận.
Quyền này bao gồm tự do t́m kiếm, tiếp nhận và phổ biến mọi loại tin
tức và ư kiến, không phân biệt ranh giới, bằng truyền miệng, bản
viết hoặc bản in, bằng h́nh thức nghệ thuật, hoặc thông qua bất cứ
phương tiện truyền thông đại chúng nào khác theo sự lựa chọn của
ḿnh”.
- Điều 5: “1- Không một quốc gia, một phe nhóm hay một cá nhân nào
có quyền giải thích các điều khoản trong Công Ước này để cho phép họ
hoạt động hay làm những hành vi nhằm tiêu diệt những quyền tự do đă
được Công Ước thừa nhận, hoặc để giới hạn những quyền tự do này quá
mức ấn định trong Công Ước. 2- Các quốc gia hội viên kết ước nào đă
thừa nhận một số nhân quyền căn bản trong luật pháp quốc gia, công
ước, quy chế hay tục lệ, sẽ không được quyền giới hạn hay đ́nh chỉ
thi hành các nhân quyền căn bản đó, viện cớ rằng Công Ước này không
thừa nhận những nhân quyền đó, hay chỉ thừa nhận trong một phạm vi
hạn hẹp hơn”.
III. 3- Tuyên ngôn Phụ đính Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền của
Liên Hiệp Quốc ngày 09-12-1998 nhân kỷ niệm 50 năm Tuyên ngôn Quốc
tế về Nhân quyền (1948-1998) :
- Điều 4. Quyền Tự Do Hội Họp: Ai cũng có Quyền Tự do hội họp trong
ṿng ḥa b́nh, tổ chức thuyết tŕnh, mít tinh, biểu t́nh, tuần hành,
để đạo đạt thỉnh nguyện lên nhà cầm quyền, hay để phản kháng những
vi phạm Nhân quyền của các viên chức và cơ quan chính quyền.
- Điều 5. Quyền Tự Do Lập Hội: Ai cũng có Quyền kết hợp trong các
hội đoàn dân sự hay chính trị : (a)- Các hội dân sự sinh hoạt trong
phạm vi tôn giáo đạo lư (giáo hội), kinh tế xă hội (công đoàn,
nghiệp đoàn), văn hóa giáo dục, từ thiện nhân đạo, ái hữu tương tế
v...v... Các hội dân sự được quyền sinh hoạt tự trị trong xă hội đa
nguyên và không chịu sự giám sát của Nhà nước. (b)- Các hội chính
trị hay chính đảng sinh hoạt trong chế độ dân chủ đa đảng. Dân chủ
đa đảng cộng với xă hội đa nguyên họp thành Dân chủ đa nguyên.
- Điều 6. Quyền Tự Do Ngôn Luận và Phát Biểu : Chiếu điều 19 Tuyên
ngôn Quốc tế Nhân quyền “ai cũng có Quyền t́m kiếm, tiếp nhận và phổ
biến các tin tức, ư kiến bằng mọi phương tiện truyền thông, không kể
biên giới Quốc gia. Ai cũng có Quyền giữ vững quan niệm và phát biểu
quan điểm mà không bị (nhà cầm quyền) can thiệp”.
III. 4- Hiến pháp Nước Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 :
- Điều 69: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ; có
quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu t́nh…”.
- Điều 70: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều b́nh đẳng trước pháp
luật”.
IV. Trước thực trạng nầy, chúng tôi, Đại diện Khối 8406 gồm 1.733
Công dân đấu tranh Dân chủ cho Việt Nam và đại diện hàng vạn Công
dân Việt Nam khác, kư tên dưới đây, đồng thanh tuyên bố trước công
luận quốc tế:
IV. 1- Chúng tôi cực lực phản đối Nhà cầm quyền CSVN, qua các hành
động đàn áp, khủng bố, đe doạ, quấy nhiễu trên đây, đă chứng tỏ việc
Nhà cầm quyền CSVN khi xin được kư kết tham gia các Văn kiện Quốc tế
nói trên chỉ là những hành động giả dối, quyết lừa gạt Liên Hiệp
Quốc để được thừa nhận trước cộng đồng quốc tế mà thôi, c̣n trong
thực tế, Nhà cầm quyền CSVN đă luôn t́m mọi cách để khống chế, áp
bức, giới hạn các quyền tự do rất chính đáng và cơ bản của người Dân,
hầu thực hiện cho bằng được chủ nghĩa và chế độ cộng sản cực kỳ hà
khắc và rất độc đoán của họ, mâu thuẫn với cả Hiến pháp của chính họ
đă buộc Quốc hội bù nh́n của họ thông qua năm 1992.
Các hành động nầy đă kéo nền văn minh Việt Nam lùi lại hàng chục thế
kỷ, khi làm cho quyền tự do tôn giáo và thông tin ngôn luận của toàn
Dân Việt Nam trong thời đại dân chủ toàn cầu này không bằng thời
Thượng cổ, Trung Cổ, Đế quốc Anh và Thực dân Pháp ở Châu Âu và ngay
cả tại Việt Nam. V́ cách đây hàng ngàn năm, Tổ tiên Việt Nam đă tự
do hơn nhiều khi sống theo tín ngưỡng – tôn giáo của ḿnh, và cách
đây hơn 150 năm, ông Karl Max đă phổ biến “Tuyên ngôn đảng cộng sản”
tại Vương quốc Anh, hoặc đầu thế kỷ XX nhóm Nguyễn Ái Quốc đă phổ
biến “Bản án chế độ Thực dân Pháp” hay tạp chí “Người Cùng Khổ” (Le
Paria) ngay tại Nước Pháp mà không hề gặp khó khăn nào.
Rơ ràng tại Việt Nam hiện nay, quyền tự do tôn giáo và tự do thông
tin ngôn luận của toàn Dân c̣n thua kém và tệ hại hơn dưới các triều
vua chúa phong kiến và thời Pháp thuộc nhiều, v́ thời đó đă có tạp
chí Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng, Tiếng Chuông Rè của Nguyễn An
Ninh, Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục thường xuyên vẫn được quyền
công khai diễn thuyết trực tiếp chống lại Thực dân Pháp cách ôn hoà
không bạo lực…
IV. 2- Chúng tôi kêu gọi Liên Hiệp Quốc, các Quốc hội, các Chính phủ,
các Vị Lănh đạo chính trị và các Chính khách sẽ tham dự Hội nghị
APEC tại Việt Nam vào tháng 11-2006, các Tổ chức Nhân quyền quốc tế,
các Tổ chức Thông tin Báo chí quốc tế, toàn thể Đồng bào Việt Nam
hải ngoại, hăy tạo các áp lực cần thiết để buộc Nhà cầm quyền CSVN
phải triệt để tuân thủ nghiêm túc các Công ước Quốc tế cơ bản mà
chính họ đă xin được kư kết tham gia, nếu Nhà cầm quyền CSVN thực
tâm muốn đưa Dân tộc hoà nhập sinh hoạt nhân văn đạo đức của Cộng
đồng Nhân loại hôm nay.
Tuyên kháng tại Việt Nam, ngày 07 tháng 7 năm 2006
Đại diện lâm thời Khối 8406
gồm 1.733 Chiến sĩ Hoà b́nh và hàng vạn Công dân quốc nội:
Công dân Đỗ Nam Hải, Sài G̣n.
Công dân Trần Anh Kim, Thái B́nh.
Công dân Nguyễn Văn Lư, Huế.
Trở lại trang chính
Mạng
Lưới Nhân Quyền Việt Nam
[Trang
nhà] [Về MLNQ]
[Luật Nhân Quyềnn]
[Tài liệu] [Tin
nhân quyền] [Diễn
đàn] [Tham gia]
[Tải xuống] [Liên
kết] |