Lời Kêu Gọi cho Quyền Thành lập

Hoạt động Đảng phái tại Việt Nam năm 2006

của 116 Nhà đấu tranh Dân chủ quốc nội Việt Nam

      

                Kính thưa Toàn thể Đồng bào Việt Nam trong và ngoài Nước,

            Kính thưa Quư liệt vị đang mong ước Dân chủ cho Việt Nam trên toàn cầu,

            Cùng với bao người đang quên ḿnh đấu tranh cho nền Dân chủ của Quê hương, chúng tôi, đại diện hàng trăm nhà đấu tranh Dân chủ cho Việt Nam ở quốc nội kư tên dưới đây, đồng thanh lên tiếng thay cho toàn thể người Việt trong và ngoài Nước rằng : Vận mệnh Tổ quốc đă, đang và sẽ lâm nguy do một tập đoàn độc quyền toàn trị là đảng Cộng sản Việt Nam. Tiếng nói của chúng tôi vang lên đây nhằm mục đích cổ vũ các hoạt động chính trị v́ ích quốc lợi dân, bênh vực mọi Nhân quyền và Dân quyền mà một Đất nước Dân chủ chân chính phải thực sự chủ trương và bảo vệ, trong đó có Quyền Thành lập và Hoạt động Đảng phái, căn cứ trên các nền tảng dưới đây :

            1- Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, Liên Hiệp Quốc biểu quyết ngày 16-12-1966 và Việt Nam tham gia ngày 24-9-1982, điều 5,2 : “Không được phép hạn chế hoặc hủy bỏ bất kỳ Quyền Cơ bản nào của con người đă được công nhận hoặc hiện tồn ở một Quốc gia thành viên của Công ước này”; điều 21 : “Mọi Công dân… đều có quyền và cơ hội để (a) tham gia vào việc điều hành các công việc xă hội một cách trực tiếp hoặc thông qua những đại diện được họ tự do lựa chọn ; (b) bầu cử và ứng cử trong các cuộc bầu cử định kỳ chân thực, bằng phổ thông đầu phiếu, b́nh đẳng và bỏ phiếu kín nhằm đảm bảo cho cử tri tự do bày tỏ ư nguyện của ḿnh”.

            2- Hiến pháp Nước Cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt Nam điều 3 : “Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của Nhân dân”; điều 11 : “Công dân thực hiện quyền làm chủ của ḿnh… bằng cách tham gia công việc của Nhà nước… bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Công dân… tổ chức đời sống công cộng”; điều 50 : “Ở nước Cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xă hội được tôn trọng”; điều 53 : “Công dân có quyền tham gia quản lư Nhà nước và Xă hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả Nước và địa phương”; điều 69 : “Công dân có Quyền Tự do Ngôn luận… có Quyền Hội họp, Lập hội, Biểu t́nh…”

            3- Hiến chế Mục vụ của Công đồng chung Vaticanô II của Giáo hội Công giáo hoàn cầu năm 1965, số 73 : “Nhờ ư thức mănh liệt hơn về phẩm giá con người, ngày nay tại nhiều Nước trên thế giới, người ta cố gắng thiết lập một thể chế chính trị pháp lư để bảo vệ hữu hiệu hơn quyền lợi của cá nhân trong đời sống công cộng, chẳng hạn quyền được tự do hội họp, tự do lập hội, tự do phát biểu ư kiến và tự do tuyên xưng tín ngưỡng cách riêng tư hoặc công khai ; v́ việc đảm bảo những quyền lợi của con người là điều kiện thiết yếu để người Công dân, với tư cách cá nhân hay đoàn thể, có thể tham gia cách tích cực vào đời sống và vào guồng máy quốc gia… Trái lại người ta lên án bất cứ thể chế chính trị nào, như hiện có ở một vài Nước, nếu nó ngăn cản quyền tự do công dân hoặc tín ngưỡng, nếu nó làm gia tăng con số các nạn nhân của tham lam và của tội ác chính trị, nếu nó làm cho việc cai trị đi lệch đường, thay v́ mưu cầu công ích lại phục vụ cho một tập đoàn hay chính những người cầm quyền”; số 75 : “Tất cả mọi Kitô hữu phải ư thức về sứ mệnh đặc biệt của ḿnh trong cộng đoàn chính trị… Trong việc tổ chức trần thế, họ phải nh́n nhận những quan điểm chính đáng dầu đối chọi nhau… Họ phải chống lại bất công và áp bức, chống độc tài và ngoan cố của một cá nhân hay một đảng phái chính trị… (bởi lẽ) những đảng phái chính trị có bổn phận cổ vơ những ǵ họ xét thấy cần cho công ích, chứ không bao giờ được đặt quyền lợi riêng trên công ích.”

            4- Thực tế chung trên toàn cầu : Tuyệt đại đa số các Quốc gia đều có một nền chính trị đa nguyên đa đảng, một bầu khí cạnh tranh chính trị công khai lành mạnh qua bầu cử và sinh hoạt chính trị dân chủ b́nh đẳng trong nghị trường. Đảng thắng cử lên cầm quyền và đảng thất cử trở thành đối lập, hai bên giám sát lẫn nhau và như thế tương trợ nhau, đang khi lập pháp, tư pháp, hành pháp, rồi báo chí, quân đội, tôn giáo đều hoạt động độc lập, tất cả chỉ v́ ích lợi Nước nhà. Mọi Công dân có tài năng và thiện chí tại các Nước đó đều có cơ hội phục vụ công ích và xây dựng Quốc gia qua các chính đảng. Nhờ thế mà các Nước ấy nói chung đều phát triển kinh tế, ổn định xă hội, bảo đảm các nhân quyền ; mọi cá nhân đều có cơ hội thăng tiến, mọi cộng đoàn đều có điều kiện triển nở và mọi vấn đề xă hội đều nhanh chóng t́m ra được cách giải quyết. Tuy chưa hoàn hảo, nhưng các xă hội đa nguyên đa đảng ấy đă bao hàm các khả năng cần thiết để sửa sai, đổi mới và hoàn thiện.

            5- Thực tế riêng tại Việt Nam : Đảng Cộng sản là đảng độc quyền duy nhất từ hơn nửa thế kỷ qua tại miền Bắc và hơn 30 năm trên cả Nước. Tuy chỉ là một chính đảng nhưng v́ hoàn toàn dựa trên học thuyết Mác-Lênin nên đảng Cộng sản chủ trương toàn trị, nghĩa là độc tài thống trị mọi mặt của đời sống cá nhân lẫn cộng đồng, từ ư thức, tâm linh, tư tưởng, t́nh cảm đến kinh tế, chính trị, văn hóa, pháp luật... Học thuyết Mác-Lênin lại chủ trương vô thần trên phương diện triết lư, độc đảng trên phương diện chính trị và xă hội chủ nghĩa trên phương diện kinh tế như một chân lư vĩnh viễn bất khả nhượng, trói buộc mọi Công dân.

            Thành ra đảng Cộng sản Việt Nam đă và đang đầu độc lương tri và cưỡng bức lương tâm con người, nhào nặn Nhân dân thành những thần dân hoàn toàn quy phục đảng qua việc độc quyền thông tin và giáo dục ; đă tiêu diệt các đảng phái quốc gia khác từng sát cánh kháng cự thực dân và đang cấm cản các đảng phái chính trị khác bằng điều 4 Hiến pháp năm 1992 ; đă và đang bách hại các tôn giáo, biến ṭa án, quốc hội, chính quyền, báo chí, công an, quân đội, thậm chí các giáo hội thành công cụ cho riêng ḿnh ; đă và đang đặt mọi luật lệ từ Hiến pháp đến các bộ luật, pháp lệnh, nghị quyết, thông tư… dưới ư muốn độc đoán của đảng, của bộ chính trị, thậm chí của vài nhân vật quyền uy nhất trong đảng ; đă và đang quản lư điều hành một nền kinh tế tư bản gian trá và khập khiễng v́ mê muội, ngoan cố, gượng ép kéo theo “định hướng xă hội chủ nghĩa” tai quái và không tưởng.

            Bởi thế, hiện trạng Việt Nam là sự hư hỏng lương tâm, tồi tệ nhân cách, bế tắc giáo dục, gian dối thông tin, tùy tiện luật pháp, hỗn loạn xă hội ; là cán bộ đảng viên lộng quyền và tham nhũng tràn lan và ngang nhiên ; là Nhân dân bị bóc lột tài sản và công sức, bị hăm dọa cuộc sống và nghề nghiệp ; là dân t́nh điêu đứng và phẫn uất ; là giới trẻ mất niềm tin, lư tưởng sống và định hướng tương lai ; là các tôn giáo bị lũng đoạn và tước đoạt ; là đồng bào hải ngoại ngao ngán và bất hợp tác ; là biên cương Tổ quốc bị ngoại bang lấn chiếm và đe dọa ; là chính thể bị phê phán lạc hậu, độc tài và Quốc thể bị coi thường ; là Đất nước thụt lùi tụt hậu thậm chí tới cả trăm năm so với nhiều Nước trong khu vực. Các bảng xếp hạng mọi mặt trong đó Việt Nam luôn đứng bậc thấp và các bản báo cáo t́nh h́nh trong đó Việt Nam luôn bị điểm mặt do các Chính phủ và Tổ chức Quốc tế công bố hằng năm là những bằng chứng. Mọi biện pháp do đảng Cộng sản đưa ra đều mang tính chắp vá, nửa vời, nhằm xoa dịu Nhân dân và che mắt Quốc tế, chẳng hề giải quyết được chuyện ǵ. Tất cả chỉ v́ độc đảng, mà lại độc đảng Mác xít cộng sản !

            Đứng trước thảm trạng và nguy cơ đó, cũng như trước viễn ảnh đại hội X của đảng Cộng sản Việt Nam sẽ mù quáng kiên tŕ học thuyết Mác-Lênin sai lầm và chế độ xă hội chủ nghĩa phá sản, đồng thời cho đảng viên chức quyền được làm kinh tế không giới hạn quy mô, chúng tôi tha thiết và đồng thanh lên tiếng :

            1- Đ̣i buộc đảng và nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam trước hết phải lập tức hủy bỏ điều 4 Hiến pháp năm 1992, một điều khoản tai quái, ngang ngược không hề có trong một bản Hiến pháp nào trên thế giới, ngoại trừ Hiến pháp Liên xô (điều 6) vốn đă bị nhân dân Nga vất vào sọt rác lịch sử, tiến đến việc thay thế bản Hiến pháp xă hội chủ nghĩa năm 1992 bằng một Bản Hiến pháp khác văn minh dân chủ hơn. Thứ đến phải phi đảng hóa quốc hội, ṭa án, nhà nước, quân đội, công an, trường học, bệnh viện, công ty, xí nghiệp, hội đoàn,…

            2- Kính mời các Đảng phái Dân chủ đang hoạt động âm thầm tại Quê hương hăy can đảm xuất hiện hoạt động công khai ; hăy hiên ngang tự xác lập vị trí của ḿnh trước Quốc Dân, không cần đợi Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam độc đoán lạm quyền “cho phép”, v́ chẳng một đảng nào được lạm quyền ban phép cho đảng khác hoạt động cả ; hăy kiên cường cạnh tranh b́nh đẳng với đảng Cộng sản, không chấp nhận tỷ lệ dưới 50% trong Quốc hội mà đảng CS có thể sẽ thí ban cho để chỉ làm bù nh́n trang trí cho một nền dân chủ giả hiệu mà thôi, v́ chính toàn Dân sẽ quyết định tỷ lệ này qua một cuộc bầu cử và ứng cử tự do, công bằng, minh bạch. Hiện nay hàng trăm cá nhân đă minh danh trực diện đấu tranh cho Dân chủ với nhà cầm quyền cộng sản nguyên chỉ bằng các phương cách ôn ḥa ; và nhà cầm quyền cộng sản đă tỏ ra rất lúng túng bế tắc không sao t́m ra cách đối phó hợp t́nh hợp lư giữa cộng đồng quốc tế. V́ thế lúc nầy chính là lúc hoàn toàn thích hợp, nếu không sẽ quá muộn, để Quư Đảng phái Dân chủ cùng nhau công khai trực diện  đấu tranh với đảng cộng sản đang càng lúc càng lún sâu vào khủng hoảng không lối thoát.

            3- Kính mời các đảng viên cộng sản phản tỉnh hăy hành động quyết liệt là tách rời ngay lập tức thực thể chính trị đă phản bội lư tưởng của ḿnh, đă lợi dụng công sức xương máu của ḿnh, đă gần một thế kỷ không chỉ mắc phải sai lầm khiếm khuyết mà là đă phạm tội ác có hệ thống và tổ chức, như Nghị quyết 1481 của Nghị viện Hội đồng Âu châu lên án ngày 25-01-2006 vừa rồi. Đó là cách thức duy nhất và tốt nhất để Quư vị tiếp tục con đường yêu Nước, phục vụ Đồng bào, lấy lại thanh danh của ḿnh trước Nhân dân và lịch sử.

            4- Kính mời Đồng bào toàn quốc hăy bảo vệ, hỗ trợ và gia nhập các đảng tân lập phi cộng sản. Làm thế là chúng ta tự giải thoát ḿnh khỏi ách độc tài đă đè đầu đè cổ Dân ta từ hơn 60 năm qua, là thực thi các quyền dân sự và chính trị cơ bản của ḿnh hầu tạo điều kiện cho Đất nước phát triển như mọi Nước có nền chính trị đa nguyên, đa đảng.

            5- Yêu cầu 2 lực lượng Quân đội và Công an cảnh sát hăy ư thức rằng tự bản chất ḿnh là 2 thực thể phục vụ Nhân dân và công ích, luôn đứng bên ngoài mọi tranh chấp đảng phái, chứ không phải là công cụ của riêng đảng Cộng sản, để đảng tiếp tục sai khiến mà đàn áp Nhân dân đang đ̣i thực thi quyền đa nguyên chính trị và các quyền chính đáng khác đi kèm.

            6- Kính xin các nhà trí thức và các bậc tu hành vốn hiểu hơn ai hết về tai họa của độc đảng độc tài và thiện ích của đa nguyên dân chủ, hăy “hết sức quan tâm đến việc giáo dục cả về công dân cả về chính trị mà ngày nay rất cần thiết cho mọi người, nhất là cho giới trẻ”, hăy dùng quyền lực và khả năng tinh thần của ḿnh để hướng dẫn, hỗ trợ, bênh vực những Công dân dấn thân làm “chính trị, một nghệ thuật khó khăn nhưng đồng thời rất cao cả” (Công đồng Vatican II, Hiến chế Mục vụ, số 75).

            7- Kính xin Đồng bào hải ngoại và các Chính phủ, Tổ chức Quốc tế hăy hỗ trợ bằng mọi cách thức, phương tiện để các đảng tại Việt Nam được thành h́nh và hoạt động, hầu Nhân dân Việt Nam cũng được hưởng bầu khí tự do chính trị như ở những miền đất dân chủ của Quư vị. Điều này quan trọng và cần thiết hơn việc đổ tiền của qua kiều hối và ngoại viện cho một chính quyền độc đảng vốn sẽ tuỳ tiện sử dụng những ngân khoản này hầu duy tŕ quyền lực, gia tăng quyền lợi và để lại những món nợ quốc tế ngày càng đè nặng lên Nhân dân Việt Nam như hiện trạng cho thấy.

            Chúng tôi nguyện xin Ơn Trên, qua lời chuyển cầu của các Bậc Tiền nhân vốn từng dạy dỗ con cháu Lạc Hồng tinh thần bao dung ḥa hợp, chúc lành cho toàn thể Dân Việt trong công cuộc bẻ găy ách độc đảng độc tài và xây dựng nền chính trị đa đảng đa nguyên là giải pháp cứu nguy Dân tộc duy nhất thích hợp hiện nay.       

Kêu gọi từ Việt Nam ngày 06-4-2006

1. Lm  G.B. Nguyễn Cao Lộc, Huế                       2. Hội trưởng PGHHTT Lê Quang Liêm, Sài G̣n

3. Lm Têphanô Chân Tín, Sài G̣n                        4. Gs Hoàng Minh Chính, Hà Nội

5. Lm F.X. Lê Văn Cao, Huế                                 6. Gs Trần Khuê, Sài G̣n

7. Lm Augustinô Hồ Văn Quư, Huế                      8. Cựu Đại tá Phạm Quế Dương, Hà Nội

9. Lm Phêrô Nguyễn Hữu Giải, Huế                    10. Cư sĩ PGHHTT Nguyễn Văn Thơ, Đồng Tháp

11. Lm Giuse Hoàng Cẩn, Huế                             12. Cư sĩ PGHHTT Lê Văn Sóc, Vĩnh Long

13. TT Thích Không Tánh, Sài G̣n                          14. Nhà văn Hoàng Tiến, Hà Nội

15. Lm Gk Nguyễn Văn Hùng, Huế                          16. Cựu Sĩ quan Trần Dũng Tiến, Hà Nội

17. Lm G.B. Lê Văn Nghiêm, Huế                           18. Cựu Thiếu tá Vũ Kính, Hà Nội

19. Lm Tađêô Nguyễn Văn Lư, Huế                         20. Gv Nguyễn Khắc Toàn, Hà Nội

21. Lm Giuse Cái Hồng Phượng, Huế                     22. Gs Nguyễn Chính Kết, Sài G̣n

23. Ms Nguyễn Hồng Quang, Sài G̣n                     24. Ks Đỗ Nam Hải, Sài G̣n

25. Ms Phạm Ngọc Thạch, Sài G̣n                         26. Nv Trần Mạnh Hảo, Sài G̣n

27. Lm Giuse Nguyễn Văn Chánh, Huế                   28. Ls Nguyễn Văn Đài, Hà Nội

29. Lm Đa Minh Phan Phước, Huế                          30. Lê Thị Phú Dung, Sài G̣n

31. Lm Giuse Trần Văn Quư, Huế                            32. Vũ Thuư Hà, Hà Nội

33. Lm Phêrô Phan Văn Lợi, Huế                            34. Bùi Kim Ngân, Hà Nội

35. Lm Phaolô Ngô Thanh Sơn, Huế                       36. Bs Nguyễn Xuân An, Huế

37. Gv Đặng Hoài Anh, Huế                                     38. Gv Đặng Văn Anh, Huế

39. Bs. Lê Hoài Anh, Nha Trang                               40. Gs Nguyễn Kim Anh, Huế

41. Gs Nguyễn Ngọc Anh, Đà Nẵng                         42. Nv Trịnh Cảnh, Vũng Tàu

43. Gv Trần Thị  Minh Cầm, Huế                             44. Gv Lê Cẩn, Huế

45. Gv Nguyễn Thị Linh Chi, Cần Thơ                     46. Gv Nguyễn Viết Cử, Quảng Ngăi

47. Ths Đặng Quốc Cường, Huế                               48. Nv Nguyễn Đắc Cường, Phan Thiết

49. Dn Hồ Ngọc Diệp, Đà Nẵng                               50. Gv Trần Doăn, Quảng Ngăi

51. Gv Hồ Anh Dũng, Huế                                        52. Gs Trương Quang Dũng, Huế

53. Bs Hà Xuân Dương, Huế                                    54. Kt Trần Văn Đón, Phan Thiết

55. Bs. Hồ Đông, Vĩnh Long                                    56. Dn Trần Văn Ha, Đà Nẵng

57. Gv Lê Thị Bích Hà, Cần Thơ                              58. Bs Lê Thị  Ngân Hà, Huế

59. Gv Lê Nguyễn Xuân Hà, Huế                             60. Gv Trần Thạch Hải, Hải Pḥng

61. Kt Trần Việt Hải, Vũng Tàu                                62. Ks Đoàn Thị Diệu Hạnh, Vũng Tàu

63. Dn Nguyễn Thị Hạnh, Đà Nẵng                          64. Gv Phan Thị Minh Hạnh, Huế

65. Gv Lê Lệ Hằng, Huế                                           66. Gs Đặng Minh Hảo, Huế

67. Nv Trần Hảo, Vũng Tàu                                       68. Yt Chế Minh Hoàng, Nha Trang

69. Gv Văn Đ́nh Hoàng, Huế                                   70. Gs Nguyễn Minh Hùng, Huế

71. Gv Lê Thu Minh Hùng, Sài G̣n                         72. Gv Phan Ngọc Huy, Huế

73. Gv Lê Thị Thanh Huyền, Huế                             74. Gv Đỗ Thị Minh Hương, Huế

75. Ths Mai Thu Hương, Hải Pḥng                         76. Yt Trần Thu Hương, Đà Nẵng

77. PTs Nguyễn Ngọc Kế, Huế                                78. Ths Nguyễn Quốc Khánh, Huế

79. Gv Nguyễn Đăng Khoa, Huế                              80. Nv Bùi Lăng, Phan Thiết

81. Bs Vũ Thị Hoa Linh, Sài G̣n                             82. Gv Ma Văn Lựu, Hải Pḥng

83. Gv Nguyễn Văn Lư, Hải Pḥng                          84. Gv Cái Thị Mai, Hải Pḥng       

85. Gv Cao Thị Xuân Mai, Huế                                86. Gv Nguyễn Văn Mai, Sài G̣n

87. Gv Tôn Thất Hoàng Lân, Sài G̣n                       88. Nv Hà Văn Mầu, Cần Thơ

89. Gv Phan Văn Mậu, Huế                                       90. Nv Lê Thị Thu Minh, Cần Thơ

91. Gv Ma Văn Minh, Huế                                        92. Gv Nguyễn Anh Minh, Sài G̣n

93. Bs Huyền Tôn Nữ Phương Nhiên, Đà Nẵng      94. Ths Đặng Hoài Ngân, Huế

95. Gv Lê Hồng Phúc, Hải Pḥng                            96. Ks Vơ Lâm Phước, Sài G̣n

97. Ks Tạ Minh Quân, Cần Thơ                                98. Bs Vơ Văn Quyền, Vĩnh Long

99. Bs. Trần Thị Sen, Nha Trang                               100. Ks Hoàng Sơn, Hải Pḥng

101. Gs Nguyễn Anh Tài, Đà Nẵng                          102. Ks Đỗ Hồng Tâm, Hải Pḥng

103. Bs. Tạ Minh Tâm, Cần Thơ                               104. Gs Nguyễn Thành Tâm, Huế

105. Gv Văn Bá Thành, Huế                                      106. Ths Trần Mạnh Thu, Hải Pḥng

107. Gs Ts Trần Hồng Thư, Sài G̣n                        108. Nv Tôn Nữ Minh Trang, Phan Thiết

109. Gv Chế Thị Hồng Trinh, Huế                           110. Bs Nguyễn Anh Tú, Đà Nẵng

111. Bs Đoàn Minh Tuấn, Sài G̣n                           112. Yt Trần Thị Hoài Vân, Nha Trang

113. Gv Ngô Thị Tường Vi, Quảng Ngăi                  114. G/v Nguyễn Lê Xuân Vinh, Cần Thơ

115. Ths Hồ Ngọc Vĩnh, Đà Nẵng                            116. Ks Lâm Đ́nh Vĩnh, Sài G̣n   v

 

 

 

 

Trở lại trang chính


Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam

[Trang nhà] [Về MLNQ] [Luật Nhân Quyềnn] [Tài liệu] [Tin nhân quyền] [Diễn đàn] [Tham gia] [Tải xuống] [Liên kết]