Pháp Lệnh Tôn Giáo: Thế Cùng Của Cộng
Sản Việt Nam
Đỗ
Thái Nhiên
Một chế độ chính trị chỉ có thể
tồn tại trong ổn định chừng nào chế độ đó được quần chúng chân thành
ủng hộ, gọi tắt là “tâm phục”. Do trình độ học vấn rất hạn chế, do
hành động chính trị độc ác, do tham ô quá độ, CSVN tự biết họ là
người khách vô cùng xa lạ đối với hai chữ “tâm phục”. Do đó CS nhìn
đâu cũng thấy âm mưu lật đổ chính quyền, cũng do đó CS rất thù ghét
đám đông. Một Đông y sĩ, một ông thầy tướng số, một võ sư dạy võ tại
tư gia... nếu những vị này được quần chúng mến mộ thì lập tức công
an sẽ tìm tới để gây khó khăn. Có thể các vị kia sẽ bị tống giam với
một tội danh mơ hồ nào đó. Có thể cơ sở làm ăn của các vị đó bị đóng
cửa...
Những năm gần đây, đông đảo cán
bộ cao cấp của CSVN đã mang tài sản và tùy tùng quyến thuộc cất dấu
tại Hoa Kỳ.Trong khi đó, tay chân của Trung Cộng nằm trong đảng CSVN
lại mang một phần lãnh thổ VN dâng cho Trung Quốc. Hai sự kiện vừa
kể là bằng chứng mạnh mẽ rằng: CSVN ngày nay đã vỡ làm hai phe, một
theo Tàu, một theo Mỹ. Nằm giữa hai phe này là ngòi nổ
TrungQuốc-ĐàiLoan. Sau lưng ĐàiLoan hiển nhiên là Mỹ. Chính ngòi nổ
kia đã làm cho quan hệ ngoại giao giữa Việt – Hoa, Việt – Mỹ có
nhiều phức tạp, tuy ngấm ngầm nhưng rất gay gắt. Bên cạnh đó là
những nghi kỵ trong nội bộ đảng CSVN ngày một sôi xục, đặc biệt là
vụ án tình báo “tổng cục 2”.
Nhìn chung lại, ám ảnh bị quần
chúng lật đổ cộng với nội bộ chia rẽ, cộng với cuộc đu dây ngoại
giao giữa Mỹ và Hoa, có thể bất ngờ đứt dây, đã đẩy chế độ CSVN đi
đến tình trạng tâm lý hoảng loạn. Cao điểm của tâm lý hoảng loạn chính
là pháp lệnh tôn giáo ngày 18/06/2004.
Pháp lệnh tôn giáo gồm 6 chương
41 điều. Tuy nhiên chỉ có các điều sau đây là đáng chú ý.
Thứ
nhất: điều 11. Điều này quy định như sau:
1/. Chức
sắc, nhà tu hành được thực hiện lễ nghi tôn giáo trong phạm vi phụ
trách, được giảng đạo, truyền đạo tại các cơ sở tôn giáo.
2/. Trường hợp thực hiện lễ
nghi tôn giáo, giảng đạo, truyền đạo ngoài qui định tại khoản 1.
Điều này phải có sự chấp thuận của Ủy Ban Nhân Dân huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Ủy Ban Nhân Dân cấp
huyện) nơi thực hiện.
Điều 11 có hai hậu quả pháp lý:
1/. Chỉ có tu sĩ các
tôn giáo mới được phép truyền đạo. Quần chúng không được phép
truyềøn đạo. Tôn giáo là tài sản tinh thần chung của quần chúng
tín đồ và giáo hội. Quần chúng tín đồ là lực chủ động trong công
cuộc truyền đạo. Tu sĩ chỉ là những người hướng dẫn truyền đạo. Cấm
quần chúng truyền đạo tức là cấm đạo. Luật phổ quát: điều gì luật
không cấm tức là luật cho phép. Luật của CSVN độc tài: điều
gì luật không cho phép có nghĩa là luật cấm. Điều 11, khoản 1: chỉ
cho phép tu sĩ truyền đạo. Như vậy pháp lệnh tôn giáo có ngụ ý cấm
quần chúng truyền đạo. Lý do: nếu cho phép quần chúng truyền
đạo thì việc hành đạo sẽ diễn ra bên ngoài hàng rào kẽm gai bao
quanh nhà chùa, nhà thờ. Điều này vi phạm pháp lệnh tôn giáo
18/06/04.
2/. hành động
truyền đạo chỉ được phép diễn ra trong phạm vi nhà chùa, nhà thờ,
thánh thất. Mọi hình thức truyền đạo qua sách báo, phát thanh,
truyền hình, internet, đều bị cấm chỉ. Mặt khác, truyền đạo gián
tiếp thông qua việc thăm viếng người già, cầu nguyện cho người bệnh
thập tử nhất sinh tại tư gia, cứu trợ đồng bào bị thiên tai bão lụt
… tất cả đều bị cấm chỉ.
Điều 11 giam bó tu sĩ và hoạt động
tôn giáo trong cơ sở tôn giáo. Xin nhớ cho rằng nhà chùa, nhà thờ,
thánh thất không phải là nơi truyền đạo. Những cơ sở tôn giáo kia
chỉ là nơi dùng vào việc thực hiện nghi thức thờ phượng theo
lòng tin của mỗi tôn giáo. Muốn truyền đạo, tu sĩ phải đến với người
dân chứ không phải người dân tìm đến tu sĩ. Nói cách khác, muốn
truyền đạo, tu sĩ phải đi muôn phương để tìm và thuyết
phục những người chưa có tôn giáo hãy chấp nhận một tôn giáo. Đức
Thích Ca không ngồi yên trong chùa để truyền đạo. Đức Jesus Christ
không ngồi yên trong nhà thờ để truyền đạo. Điều 11 Pháp Lệnh
Tôn Giáo cấm truyền đạo bên ngoài nhà thờ, nhà chùa. Hơn thế nữa
ngay cả trường hợp tu sĩ gửi thư hoặc nhắn lời mời quần chúng đến cơ
sở tôn giáo để nghe truyền đạo cũng bị cấmchỉ, bởi vì thư và lời mời
kia là những hoạt động tôn giáo xẩy ra bên ngoài nhà chùa và nhà thờ.
Một cách ngắn, gọn: điều 11 tuyệt đối cấm truyền đạo, điều 11 giam
cầm tu sĩ trong vòng rào kẽm gai của cơ sở tôn giáo để tôn giáo chết
dần, chết mòn bên trong vòng rào đó.
Thứ
hai : điều 12. Điều này viết nguyên văn như sau:
1. Người
phụ trách tổ chức tôn giáo cơ sở có trách nhiệm đăng ký chương trình
hoạt động tôn giáo hàng năm diễn ra tại cơ sở đó với Ủy Ban
nhân dân xã, phường,thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy Ban nhân dân
cấp xã); trường hợp tổ chức hoạt động tôn giáo ngoài chương trình đã
đăng ký thì phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận.
2. Thẩm
quyền chấp thuận việc tổ chức lễ hội tín ngưỡng do chính phủ quy
định.
Điều 12 đòi hỏi các tổ chức tôn
giáo mỗi đầu năm phải khai trình với nhà cầm quyền hoạt động tôn
giáo trong năm đó. Làm thế nào các tu sĩ có thể dự đoán chính xác
những hôn lễ, lễ cầu an hay tang lễ trong năm? Làm thế nào các tu sĩ
biết trước được những chuyển biến của xã hội trong một năm để xin
phép tiến hành nghi thức cầu nguyện thích nghi? Thâm ý của điều 12
là biến các hoạt động của tôn giáo hoàn toàn trở nên khô cứng, không
còn khả năng bắt theo nhịp sống của quần chúng, chia xẻ vui buồn với
quần chúng. Cuối cùng, từng bước một vai trò của tôn giáo bị xóa mờ
trong dòng sinh hoạt chung của xã hội. Tôn giáo chết dần bên trong
cơ sở tôn giáo.
Thứ ba: Điều 13, khoản 1 và
điều 22, khoản 1.
Điêù
13
1. Người
đang chấp hành án phạt tù hoặc đang bị quản chế theo qui định của
pháp luật thì không được chủ trì lễ nghi tôn giáo, truyền đạo, giảng
đạo, quản lý tổ chức của tôn giáo và chủ trì lễ hội tín ngưỡng.
Điều
22:
1. Việc
phong chức, phong thẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử trong tôn giáo được
thựïc hiện theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo và đảm bảo
điều kiện quy định tại khoản 2 Điều này; trường hợp có yếu tố nước
ngoài thì còn phải có sự thỏa thuận trước với cơ quan quản lý nhà
nước về tôn giáo trung ương.
Điều 13 và 22 cho thấy: muốn phong
chức một tu sĩ phải được sự cho phép trước của nhà nước CS. Riêng
đối với việc ngưng chức một tu sĩ, nhà nước chỉ cần ban hành lệnh
quản chế đối với tu sĩ bị xem là “khó bảo”, lập tức tu sĩ đương sự
trở thành người bại liệt toàn diện trên mọi sinh hoạt tôn giáo.
Không còn hoài nghi gì nữa, điều 13 và 22 xác định: nhà nước CS nắm
chắc trong tay quyền SINH và SÁT đối với tu sĩ.
Nói tóm lại, pháp lệnh tôn giáo
18/6/04 của CSVN đã sử dụng các điều 11, 12, 13 và 22 để dùng hàng
rào kẽm gai vây chặt chùa và nhà thờ. Tu sĩ và tôn giáo bị giam cầm
bên trong hàng rào kẽm gai đó. Tu sĩ và tôn giáo bị cô lập với sinh
hoạt xã hội. Cấm truyền đạo bên ngoài rào kẽm gai. Bên trong rào kẽm
gai từ chương trình sinh hoạt của mỗi tôn giáo đến việc phong chức,
cất chức ...tất cả đều phải được nhà nước CS xét và cho phép. Dưới
chế độ CS xin phép có nghĩa là chờ nghe lệnh cấm. Mặc dầu cấm đạo
rất gay gắt, điều 1 của pháp lệnh vẫn mãnh mẽ xác định:
Điều
1: Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không
theo một tôn giáo nào. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của công dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy.
Dường như thừa biết điều 1 hoàn
toàn không thu phục được lòng tin của người dân, pháp lệnh tôn giáo
viết thêm điều 38:
Điều
38: Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác
với quy định của Pháp lệnh này thì thục hiện theo quy định của điều
ước quốc tế đó.
Trả lời điều 38 của Pháp
lệnh tôn giáo là điều 18 của Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền minh
xác:
Điều
18: Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do
lương tâm và tự do tôn giáo, quyền này bao gồm cả quyền tự do thay
đổi tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín
ngưỡng qua sự giảng dạy, hành đạo, thờ phụng và nghi lễ hoặc riêng
mình hoặc với người khácTẠI NƠI CÔNG CỘNG HAY TẠI NHÀ RIÊNG.
Mang điều 38 Pháp lệnh tôn giáo
đặt bên cạnh điều 18 Quốc tế Nhân Quyền, chúng ta nhận biết ngay
rằng bản chất của VC là thường xuyên ăn gian nói dối với sự tin
tưởng u tối rằng: không ai biết rằng họ đang ăn gian nói dối.
Không còn nghi ngờ gì nữa, Pháp
Lệnh Tôn Giáo 18/06/04 có chủ ý tiêu diệt tôn giáo bằng cách đẩy tôn
giáo vào hoàn cảnh phải chết dần chết mòn, chết từ từ. Đàn áp hay
gây khó khăn cho tôn giáo chỉ có tác dụng ngăn cản đà phát triển của
tôn giáo. Tiêu diệt tôn giáo là giết chết tôn giáo. Pháp lệnh tôn
giáo 18/06/04 kéo theo các hệ lụy rất đáng chú ý sau đây:
1/. CSVN
đang ở giai đoạn nỗ lực chứng tỏ cho quốc tế thấy rằng họ là một nhà
cầm quyền tôn trọng nhân quyền, xứng đáng được hòa nhập thực sự vào
hoạt động kinh tế thị trường của xã hội quốc tế, xứng đáng được tham
dự vào tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Đồng thời, CSVN đang bị các
giới cấp viện quốc tế, đặc biệt là Nhật Bản, gây sức ép ngày một
nặng nề, đòi hỏi CSVN phải thực sự tôn trọng dân chủ nhân quyền như
nền tảng căn bản của công cuộc phát triển kinh tế. Trong khung cảnh
bang giao quốc tế như vừa kể, CSVN ban hành pháp lệnh 18/06/04.
2/. Theo
thủ đoạn “chia để trị”, CSVN thường gây chia rẽ giữa các tôn giáo
bằng cách đánh tôn giáo này, o bế tôn giáo kia và ngược lại o bế tôn
giáo này, đánh tôn giáo kia. Đặc biệt pháp lệnh 18/06/04 đã hạ lệnh
tử hình đồng loạt tất cả tôn giáo. Sự thể này hối thúc các tôn giáo
phải đoàn kết chặt chẽ với nhau nhằm đương đầu với nhà cầm quyền độc
tài.
3/. Tuyệt
đa số người Việt Nam là những người hữu thần. Tấn công vào tôn giáo
chính là tấn công vào quần chúng Việt Nam. Toàn dân Việt Nam sẽ cùng
đứng lên đòi hỏi tự do tôn giáo. Tự do tôn giáo chính là quyền độc
lập của các tôn giáo đồng thời cũng là quyền độc lập của quần chúng
đối với chính quyền. Tự do tôn giáo và tự do dân chủ như anh em song
sinh.
4/. Tôn
giáo là thành phần cực kỳ trọng yếu của văn hóa. Pháp lệnh tôn giáo
là ngòi nổ dẫn đến cao trào đấu tranh cho tự do tôn giáo, đấu tranh
cho tự do văn hóa. Tự do văn hóa, tự do tư tưởng là cổng chính dẫn
vào lâu đài tự do dân chủ.
Với bản chất độc tài, nham
hiểm, CSVN có thừa khôn ngoan để nhìn ra bốn hệ lụy trên. Thế nhưng
tại sao CSVN vẫn nhất quyết ban hành pháp lệnh tôn giáo? Câu trả lời
nằm ở kinh nghiệm: “Cùng tắc biến”. Dĩ nhiên “biến” phải “tắc thông”.
Thế cùng của CS đã buộcCSVN cho ra đời pháp lệnh tôn giáo như một
thách thức hổn láo đối với mọi nổ lực vận động Quốc Hội Mỹ thông qua
“Dự Luật Nhân Quyền Việt Nam 2004” (Tác giả là DB CHRIS
SMITH- R, NJ) Thế cùng của CS chính là thế thông của tự do dân chủ.
Toàn thể người Việt trong cũng như ngoài nước xin hãy đoàn kết chặt
chẽ chung quanh các tôn giáo để thành lập Mặt Trận Liên Tôn Việt
Nam, từ Liên Tôn Việt Nam, chúng ta tiến tới Liên Tôn Quốc Tế. Trong
và ngoài nước quyết tâm phối hợp đấu tranh cho tự do tôn giáo tại
Việt Nam. Trong và ngoài nước quyết tâm khai thác thế cùng của CSVN,
tạo điều kiện để thế “thông” vươn vai đứng dậy. Tại cao điểm của thế
thông HOA TỰ DO DÂN CHỦsẽ nở rộ muôn nơi trên quê hương Việt Nam.
[Trang nhà] [Về MLNQ] [Luật Nhân Quyềnn] [Tài liệu] [Tin nhân quyền] [Diễn đàn] [Tham gia] [Tải xuống] [Liên kết] |