9/11 ba năm sau
Vấn đề Nhân Quyền qua vụ ABU GHRAIB
Lâm
Lễ Trinh
«Hoa kỳ cam kết loại trừ sự tra tấn ra khỏi thế
giới và chúng tôi đang cầm đầu chiến dịch này bằng cách nêu gương».
Đó là lời tuyên bố long trọng của Tổng thống Bush Ngày Quốc tế 26.6.2003
ủng hộ các nạn nhân bị tra tấn. Không đầy một năm sau, thế giới sửng
sốt khi nhìn những bức ảnh một số quân nhân Mỹ cười đắc chí trong
lúc hành hạ một cách ghê tởm các người tù Irak tại
khám đường Abu Ghraib, Baghdad. Chính phủ Bush giải thích rằng đây
là hành động của vài con chiên ghẻ nhưng nhiều bằng cớ
xác nhận sự thực không phải như thế.
1-
Bắt nguồn từ kế hoạch bí mật Copper Green của Ngũ Giác
Đài.
Khi xì-căn-đan Abu Ghraib nổ lớn, một Ủûy ban đặc nhiệm
tại Thượng viện Hoa kỳ liền mở cuộc thẫm vấn nhiều nhân vật hữu
trách. Giới truyền thông, trong và ngoài xứ, làm lớn chuyện. Phần
đông dư luận nghĩ rằng các hành vi tra tấn nói trên – được chiếu
trên đài TV và in hình trong báo chí - nằm trong khuôn khổ của một
chính sách. Các cộng đồng và tổ chức đấu tranh nhân quyền trên thế
giới phản ứng rất mạnh. Hội Ân xá Quốc tế và Human Rights Watch thu
góp tài liệu từ hai năm nay để lập một hồ sơ về việc đối xữ với tù
nhân trong những trung tâm giam giữ của Hoa kỳ trên địa cầu. Các cơ
quan này trình bày những lo âu trong những lần tiếp xúc với Ngũ Giác
Đài.
Dựa vào lời tiết lộ của một số nhân viên tình báo cấp
cao, ký giả danh tiếng Seymour M. Hersh đã dăng tháng 5 và 6 vừa
qua. trong tạp chí The New Yorker, một loạt bài nghiên
cứu «The Gray Zone – How a
secret Pentagon program came to Abu Ghraib?». Hersh
cho biết sau biến cố 9.11.2001, chương trình Hoa kỳ
truy nã khủng bố và thẫm vấn tù binh tại Afghanistan
và Irak thay đổi toàn diện do chủ trương của Bộ trưởng Quốc phòng
Rumsfeld qua mặt CIA trong trách nhiệm kiểm soát các chiến dịch bí
mật và bán quân sự.
A
-Trước hết, tại Afghanistan.
Chỉ vài tuần sau
vụ 9/11, Mỹ dội bom Afghanistan và truy lùng ráo riết Al Quaeda.
Theo nguyên tắc, các đơn vị tác chiến Mỹ phải xin phép
CIA trước khi tấn công mục tiêu của địch. Đêm 7.10. 2001, một máy
bay Predator không người lái nhận diện một đoàn công-voa chở lãnh tụ
Taliban Mullah Muhammad Omar. Đài chỉ huy CIA tại Tampa, Florida, từ
chối cho phép phi cơ khai hỏa tại trận. Khi cho phép, địch đã cao
bay xa chạy.Một sĩ quan thân cận cho biết Rumsfeld tức phát điên về
chuyện này. Báo Washington Post ghi
lại: Qua tháng 11.2001, không quân Mỹ nghĩ rằng họ đã để sẩy một số
cán bộ gộc Al Qaeda và Taliban vì CIA do dự.. Ngoài Hoa
kỳ, các Lực Lương Đặc biệt Mỹ cũng gặp trở ngại như thế trong lúc
truy lùng các người bị tình nghi khủng bố vì phải xin phép của Đại
sứ Mỹ hay cấp có quyền trong hệ thống chỉ huy tại địa
phương.
Rumsfeld
phản ứng bằng cách lập tại Ngũ Giác Đài một kế hoạch bí mật SAP. Special
Access Program, mệnh danh Copper
Green, Đồng Xanh, cho phép trước, khi cần hành động
cấp thời: giết, bắt sống và tra vấn các « con cá khủng bố bự, high
value targets. » Kế hoạch này được tuyển nhân viên trong
số thành phần thượng thặng của Navy Seals, lực lượng Quân đội Delta
Force và chuyên gia bán quân sự NASA và CIA. Về phần
trang bị, có thể xữ dụng võ khí tối tân thời Chiến tranh lạnh, kể
luôn tiềm thủy đỉnh và bom khí độc. Nhân viên SAP có quyền vượt các
biên giới khỏi cần chiếu khán và thẫm vấn tại chổ hay
tại các trung tâm nhà binh giam giũ của Hoa kỳ rải rác trên thế
giới, ngoài Guantanamo, Cuba. Tổng thống Bush được Rumsfeld thông
báo và Cố vấn an ninh quốc gia Condolezza Rice cũng đồng ý về kế
hoạch đề ra.
Theo
Hersh, chỉ có lối 200 người nằm sâu trong kế hoạch, trong số ấy có
Rumsfeld và tướøng Richard Meyers, chủ tịch Hội đồng tham mưu Quân
lực Hoa kỳ. Luật bảo mật Quốc phòng miễn cho kế hoạch
được thuyết trình đầy đủ trước Quốc hội. Tháng 3.2003, Stephen
Cambone, một nhân vật gần Rumsfeld, được bổ nhiệm Thứ trưởng Quốc
phòng để phụ trách kế hoạch. Kenneth de Graffenreid điều khiển về
tình báo và tướng William G.Boykin phụ tá về quân sự. Gần đây,
Boykin đã gây sôi nổi khi ông xác nhận tại một thánh
đường rằng chiến tranh hiện nay là một cuộc thánh chiến chống Hồi
giáo.
B
– Tại Irak.
Cho đến nữa năm 2003, kế hoạch Copper
Green được Bộ Quốc Phòng xem như thành
công chống khủng bố tại Afghanistan. Chiến tranh Irak nổ lớn sau đó.
Các Lực lượng Đăc biệt lùng bắt được Saddam Hussein nhưng không tìm
ra dấu tích võ khí giết đại chúng WMD, Weapons of
mass destruction.
Trong
các tháng đầu sau ngày Baghdad thất thủ, Bộ
trưởng Rumsfeld tuyên bố nhóm phá rối tại Irak là tàn quân thuộc
đảng Baath của Saddam, còn sót lối 5000 người. Khá
đông tay chân bộ hạ của Saddam có tên trong danh sách 55 nhân vật
đầu sỏ bị Mỹ truy lùng, lọt vào lưới pháp luật. Tháng
8.2003, Tòa Đại sứ Jordanie bị phá tan hoang, gây thiệt mạng cho 19
thường dân. Khủng bố tấn công Tổng hành dinh Liên Hiệp Quốc tại
Baghdad, giết 23 nhân viên, gồm có trưởng phái đoàn
Sergio Vieira de Mello. Ngày 25.8., Rumsfeld công nhận
thành phần nổi loạn gồm có tín đồ Hồi giáo và « những kẻ sát nhân,
trộm cướp ». Năm tháng sau ngày Baghdad đầu hàng,
Rumsfeld nói: «Tôi nghĩ chống khủng bố tại Irak tốt
hơn là đụng độ với chúng ngay tại Hoa kỳ». Tướng
John Abizaid, tổng chỉ huy Huê Kỳ tại Irak, xác nhận: “Dân
phiến loạn có nhiều tiền và võ khí. Chúng
nguy hiểm." Đến
nay, việc chống đối Chính phủ lâm thời của thủ tướng
Ayad Allawi vẫn tiếp tục vì quần chúng Irak nghĩ chủ
quyền thật sự nằm trong tay của Tổ chức Liên Minh Cầm
quyền Tạm thời, Coalition Provisional
Authority, do Hoa kỳ giựt dây.
Tháng
2 vừa qua, trước Uûy ban điều tra Thượng viện, trung
tướng Antonio Taguba tiết lộ chính trung tướng
Geoffrey Miller, chỉ huy khám đường Guantanamo, đã
đề nghị trong một cuộc khảo sát tại Irak vào tháng 8.2203, thay đổi
cách làm việc của các sĩ quan chỉ huy tại Baghdad và giao cho những
chuyên viên tình báo quân sự điều khiển những trung
tâm thẫm vấn. Đặc biệt, tướng Miller nhấn mạnh nên đem ra áp dụng
phương thức hỏi cung tại Guantanamo, thí dụ như không
cho các tù nhân ngủ để lấy lại sức, giam họ ở những chổ thật lạnh
hay thật nóng, gây khủng hoảng tinh thần..vv..Về mặt pháp lý, ông
cũng chủ trương các người tù khủng bố không đáng được hưởng sự bảo
vệ của Hiệp ước Genève vì họ là nhửng chiến binh bất hợp pháp, illegal
combatants. Có lúc số tù nhân tại Abu Ghraib tăng
lên đến con số 50.000 gổm cóù phụ nữ và trẻ vị thành niên, một số
nhân vật thời Saddam, thường phạm trộm cướp và các người bị tình
nghi phá hoại.
Xì-căn-đan
tra tấn tù nhân bị đưa ra ánh sáng ngày 13.1.2004 khi Joseph Darby,
một quân cảnh trẻ tuổi làm việc tại Abu Ghraib báo cáo tệ đoan với
Cục Điều tra Tội ác trong Quân đội, kèm theo một CD
đầy ảnh tù lõa thể nằm chồng lên nhau, tù bị xích như
thú vật, tù bị chó dữ nhe răng chực cắn,..vv..Ba hôm sau, Bộ trưởng
Rumsfeld nhận được phúc trình và Tổng thống Bush được thông báo. Đài
CBS cho chiếu phim tra tấn trong chương trình hàng tuần “
60 minutes” Tướng Taguba kết luận rằng từ tháng 10 cho đến tháng
chạp 2003, nhiều vụ “lạm dụng tù nhân có
tính cách bạo dâm. huyên náo và tục tĩu” đã
xãy ra tại Abu Ghraib. 39
tù nhân qua đời.. Không ai có thể tưởng tượng siêu cường Hoa kỳ,
lãnh tụ của thế giới tự do và luôn luôn tuyên bố bênh vực nhân quyền,
lại để những hành động lố lăng xãy ra như thế. Thanh danh của Hoa kỳ
bị sứt mẻ nặng nề.
2 –
Biến cố 9/11 thay đổi tâm trạng của quần chúng Mỷ và chính sách của
Chính phủ Bush
Trong một cuộc điều trần tháng 9.2002 trước Ủy ban
Tình báo tại Hạ và Thượng Viện Mỹ, Cofer Black, giám đốc Trung tâm
Phản gián CIA, khai: « Có một giai đoạn trước
9/11 và một giai đoạn sau 9/11. Sau
9/11, tháo găng làm mạnh, the gloves come off”. Hoa
kỳ không còn bất khả xâm phạm và bị tấn công ngay trên lãnh thổ của
mình, bởi vài tên khủng bố võ trang sơ sài và xữ dụng máy bay hàng
không Mỹ. Báo The Washington Post đăng
ngày 26.12.2002 nơi trang đầu một phúc trình chi tiết
về những phương pháp tra tấn nhiều ngàn người bị Quân
đội Hoa kỳ bắt giữ sau ngày 9 tháng 11. Theo tài liệu
vừa này, nhà chức trách Mỹ phụ trách điều tra tại Hoa
kỳ lớp tù nhân cấp cao trong khi lớp tù nhân loại thấp được
gởi ra các nước ngoài như Jordanie, Maroc và Ai cập để
giao cho những cơ quan an ninh lấy cung bằng biện pháp mạnh.
Tất
cả các nhân viên an ninh quốc gia được phỏng vấn trong bài báo nói
trên đều bênh vực việc áp dụng sự tra tấn: “Nếu bạn không vi phạm
nhân quyền của một ai trong một thời khoản nào thì bạn có thể coi
như không thi hành công tác của bạn, If you don’t
violate someone’s human rights some of the time, you probably aren’t
doing your job.” Đó là lời nói của một nhân viên
chính phủ được kể lại. Y tin rằng đa số thường dân Mỹ
cũng cho rằng điều này hơpï lý và cần thiết.
Thật
vậy, tại nước Mỹ sau biến cố 9/11, việc tranh luận về vấn đề tra tấn
không còn có tính cách lý thuyết. Nhiều người đứng đắn thường chống
đối biện pháp tra tấn có thể bất thần nghĩ rằng có
những trường hợp việc tra tấn một kẻ tình nghi là một cái giá phải
trã để cứu nhiều mạng sống. Giáo sư Alan Dershowitz
thuộc Đại học luật khoa Harvard đề nghị cho phép việc xử dụng những
“lệnh tra tấn, torture warrants” để phòng ngừa
các vụ tấn công thảm khốc khẩn thiết. Ông lâp luận
rằng nếu cần áp dụng tra tấn để thu hoạch những tin tức cứu mạng
người – tình trạng cấp bách này được mệnh danh “bố
cảnh bom tíc tắc, ticking bomb scenario” - thì
việc tra tấn phải được tiến hành công khai, với sự đồng ý và nhận
lãnh trách nhiệm của giới có thẩm quyền cao nhất tức là Chủ tịch Tối
cao Pháp viện.
Giải
pháp vừa nói có vẽ ít tệ hại nhất trong hai giài pháp.
Tuy nhiên các người chống đối sự tra tấn lưu ý rằng trong
đời sống thực tế, rất hiếm xảy ra trường hợp hoàn bị “bom tíc tắc”.
Đúng vậy, làm sao biết chắc người đang bị tra tấn thông hiểu bom đặt
ở đâu? hay nguồn tin ấy đáng tin cậy hay chăng? Thông thường một số
nạn nhân của sự tra tấn sẳn sàng thú nhận bất cứ gì để tránh bị hành
hạ. Chính vì sự thiếu xác thực ấy cho nên cuối cùng,
biện pháp tra tấn được đem ra áp dụng trong môt số lớn
hoàn cảnh thay vì chỉ trong trường hợp đặc biệt. Sự
kiện này xảy ra tại Israel, một quốc gia sống dưới sự đe
dọa của bom đạn hằng ngày. Tại đây, “bố cảnh bom tíc tắc” được
viện dẫn để biện minh cho chuyện thi hành những phương pháp gây “áp
lực thể xác vừa phải”. Hệ quả đáng tiếc là nhiều
ngàn người tình nghi Palestine bị bắt
giữ và tra khảo. Năm 1999, Tối cao Pháp viện Israel cấm đoán bằng
một phán quyết hành động này quá quen thuộc đến mức trở
thành một chính sách.
Mặt
khác, việc tra khảo phản tác dụng vì đẩy các nạn nhân và cộng đồng
của họ vào sự gịận dữ và căm hờn. Ngoài ra, tra tấn biến các kẻ bị
tình nghi thành những thành phần khủng bố và biến những tay khủng bố
thật sự thành những sát nhân khát máu hơn. Sự tra tấn đặt các
chiến sĩ và thường dân trong tình trạng bị trả đũa nguy hiểm, không
kể tiêu hủy uy thế tinh thần của các người áp dụng
biện pháp tra tấn khi họ lên tiếng tố cáo những lạm
dụng đối với dân tộc của họ. Các thành viên, nam lẫn
nữ, của Quân đội Hoa kỳ cũng như các viên chức dân sự Mỹ liên hệ đến
cuộc chiến hiện thời tại Irak, đang lâm vào một tình trạng nguy hiểm
hơn bị giết hay bị hành hạ nếu họ rơi vào tay kẻ thù. Phe khủng bố
đã không phí thời giờ giải thích quyết định của họ chặt đầu Mỹ kiều
Nicolas Berg là để đáp lại chính quyền Hoa kỳ xữ tệ tù nhân Irak.
Khi Hoa kỳ nêu ra vấn đề “giá trị, values” –
tức là các lý tưởng kiêu kỳ về tự do và công lý mà họ tuyên bố bảo
vệ khi khai chiến với Irak – thì lập luận của họ có vẽ rỗng
tuếch và giả dối.
Trong
xì-căn-đan Abu Ghraib, (nữ) thiếu tướng Janis Karpinski, giám đốc
của trung tâm này, bị cách chức. 7 nhân viên khác bị truy tố trước
Tòa án binh về tội “.đồ mưu, xao nhãng
phận sự, đối xữ
ác độc tù nhân, hành hạ, tấn công và hành động bất nhã.” Tướng
Ricardo S.Sanchez, tổng tư lệnh Quân đội viễn chính Mỹ, bị thuyên
chuyễn. Ứng cử viên Tổng thống John Kerry kêu gọi Rumsfeld lãnh
trách nhiệm và từ chức Bộ trưởng Quốc phòng. Rumsfeld, đến nay, bình
chân như vại. Ngục thất Abu Ghraib bị phá hủy để xóa mọi di tích.
Phúc trình chung quy trách cho sự thiếu tồ chức, thiếu huấn luyện
nhân viên điều tra và thiếu kỷ luật. Công lý được giải quyết ngắn
gọn nhưng lưu lại trong tâm tư của dân Hồi giáo một âm vang đầy bất
mãn.
Kết luận
Nếu
hai bên đối nghịch không khéo tự chế, cuộc chiến tranh khủng bố hiện
nay có cơ trở thành một cuộc chiến không lối thoát,
một “cuộc chiến ngàn năm.” Nhiều thức giả không đồng quan điểm với
giáo sư Samuel Huntington rằng sự
tranh chấp đang diễn tiến là một va chạm mạnh giữa các nền văn minh, clash
of civilizations. Kinh hoàng bởi biến cố 9/11, dân chúng Hoa kỳ
ủng hộ cuộc chiến chống khủng bố, trong đó “kẻ nào
không đứng về phía chúng ta tức là chống chúng
ta”, theo lời tuyên bố của Tổng thống Bush. Trên
thực tế, chủ trương khủng bố chỉ là một phương pháp hành động chớ
không phải là một ý thức hệ.
Làm
thế nào Hoa kỳ tái dựng được uy tín đạo lý và thu phục lại lòng tin
cẩn của thế giới? Bằng cách chấp nhận và thể hiện một
chính sách minh bạch và cương quyết chống tra tấn từ
thượng tầng đến hạ cấp. Bằng cách phân minh lên án mọi
kỹ thuật tra khảo, long trọng cam kết tuân hành các
quy tắc quốc tế về việc cấm đoán tra tấn. Bằng cách bảo đảm điều tra
công bằng và độc lập mọi vi phạm và truy tố bất luận
ai liên hệ đến việc hành hạ tù nhân; và cung cấp cho
các cơ quan quốc tế những sự dễ dàng tiếp xúc với tất cả các phần tử
bị tình nghi khủng bố.
Vấn đề quan yếu là chính quyền Bush có thiện chí làm
chuyện này hay không? có tin hay chăng rằng sự tra tấn
là một khí cụ chính đáng trong cuộc chíến chống khủng bố?
Trong bài diễn
văn năm 2002 về Tình trạng Liên bang, Tổng thống Bush tuyên bố: “Hoa
kỳ sẽ luôn luôn cương quyết giữ vững lập trường về những đòi hỏi bất
khả nhân nhượng về phẩm giá con người; về pháp trị; về giới hạn
quyền lực của quốc gia; về sự tôn trọng nữ phái; về quyền tư hữu; về
tự do ngôn luận; về công lý bình đẳng; về sự khoan dung tôn giáo..Chúng
tôi mong thể hiện một thế giới công bằng và hòa bình ở tận bên kia
cuộc chiến chống khủng bố.”
Nay
đã đến lúc chứng minh rằng tất cả hứa hẹn này không phải chỉ là lời
nói suông.
LÂM LỄ TRINH
Thủy Hoa Trang
Ngày 11.9.2004
Californie
Tài liệu tham
khảo:
1 – Seymour M.
Hersh, “The Gray Zone.How a Pentagon program came to Abu Ghraib”, “Torture
at Abu Ghraib. American soldiers brutalized Iraqis. How far up does
the responsibility go?”, in The
New Yorker, 10.5. and 24.5.2004
2 – Samuel
Huntington, “The Clash of civilizations” in Foreign Affairs,
NY, vol 73, 1993
3 –
Jean Francois Revel, “Comment les démocraties finissent”, Grasset,
Paris, 1983
4-
Alain Gresh, « La Guerre de Mille ans ». dans
le Monde Diplomatique, Sept 2004, p. 22. 5 – Olivier Roy, « Al-Qaida, label ou organisation? » dans Le Monde diplomatique, sept 2004,. Pages 24-25
[Trang nhà] [Về MLNQ] [Luật Nhân Quyềnn] [Tài liệu] [Tin nhân quyền] [Diễn đàn] [Tham gia] [Tải xuống] [Liên kết] |