| QUYỀN
        TỰ DO DÂN CHỦ(Những Quyền Tự
        Do Tinh Thần và Tự Do Chính Trị)
   Năm 1948 Tuyên Ngôn Quốc
        Tế Nhân Quyền được 48 quốc gia
        chấp thuận. Năm 1966 hai Công Ước
        Quốc Tế Nhân Quyền đã được hơn
        100 quốc gia ký kết để 10 năm sau co
        hiệu lực chấp hành. Công Ước Kinh
        Tế, Xã Hội Văn Hóa dành 10 điều cho các
        quyền kinh tế xã hội và văn hoá giáo
        dục. Công Ước Dân Sự Chính Trị chỉ
        dành 5 điều cho các quyền tự do tinh thần
        và tự do chính trị, như tự do tôn giáo,
        tự do tư tưởng, tự do phát biểu quan
        điểm, tự do hội họp và lập hội
        và quyền tham gia chính quyền. Tuy nhiên đây là
        những quyền tối quan trọng như tự do
        tư tưởng, tự do lương tâm, tự do
        tôn giáo là những quyền không thể bị thâu
        hồi hay đình chỉ dầu trong trường
        hợp quốc gia ban hành tình trạng chiến tranh
        hay khẩn trương. Các tù nhân chính trị và tù
        nhân lương tâm là những nạn nhân của các
        chính quyền độc đoán đã vi phạm
        những quyền tự do chính trị và tự do
        tinh thần ghi trong Công Ước Quốc Tế cũng
        như trong hiến pháp và luật pháp quốc gia. Nhưng
        dầu vi phạm, họ vẫn chối cãi. Họ còn
        không thừa nhận có tù nhân chính trị. Họ
        giải thích rằng các tù nhân này đã được
        toà án thường tụng xét xử nên đã
        trở thành tù thường phạm. Chủ trương
        như vậy, họ đã phủ nhận tư cách
        tù nhân chính trị của các nhà tiền bối
        của họ bị bắt giam về các tội
        phản nghịch hay phá rối trị an. Họ đã
        lầm lẫn thủ tục với tội danh. 23) Tự Do Lương Tâm và
        Tự Do Tôn Giáo (Freedom
        of Conscience and Religion) (điều 18 TNQTNQ và điều
        18 CUDSCT) Quyền tự do tôn giáo bao
          gồm quyền thờ phượng, quyền
          truyền giáo, và hành đạo cũng như
          quyền thay đổi tôn giáo. Thờ phượng
          và truyền bá tín ngưỡng có thể diễn
          ra tại các nơi công cộng hay tại nhà riêng,
          có tính cách tập thể hay riêng tư. Cũng như
          các quyền tự do khác như tự do phát
          biểu quan điểm, tự do hội họp và
          lập hội, tự do đi lại, tự do
          xuất ngoại v.v... việc hành xử quyền
          tự do tôn giáo chỉ có thể bị giới
          hạn theo luật để bảo vệ các
          quyền và tự do của người khác, đáp
          ứng nhu cầu chính đáng về đạo lý,
          trật tự công cộng, an ninh quốc gia,
          sức khỏe công cộng và phúc lợi chung trong
          một xã hội dân chủ. (điều 29 TNQTNQ và
          điều 12, 18, 19, 21, và 22 CUDSCT) Như đã quy định
          ở điều 13 CUKTXHVH về quyền tự do
          giáo dục, cha mẹ và phu huynh được
          lựa chọn trường học được
          lựa chọn trường học cho con em, kể
          cả việc giáo dục về tôn giáo và đạo
          lý theo tín ngưỡng của gia đình. 24) Tự Do Tư Tưởng
        và Phát Biểu Quan Điểm
        (Freedom of Thought and Expression) (điều 18, 19 TNQTNQ và
        19 CUDSCT) Ai cũng có quyền tự
          do tư tưởng và phát biểu ý kiến
          của mình, được quyền tự do
          giữ vững quan điểm mà không bị người
          khác can thiệp. Ai cũng có quyền tìm kiếm,
          tiếp nhận và phổ biến tin tức và ý
          kiến về mọi vấn đề, bằng
          mọi phương tiện truyền thông không phân
          biệt biên giới quốc gia. Tuy nhiên quyền
          tự do phổ biến tin tức và phát biểu
          quan điểm cũng bị hạn chế theo
          luật như quyền truyền bá tôn giáo và hành
          đạo. Như Tuyên Ngôn về
          Quyền Con Người và Quyền Công Dân Pháp
          đã quy định từ cuối thế kỷ
          18, "quyền tự do phát biểu quan điểm
          là một quyền cao quý nhất của con người.
          Công dân có quyền nói, viết và in ấn tự
          do và chỉ chịu trách nhiệm khi có sự
          lạm dụng tự do trong những trường
          hợp luật định." Nghiã là ai cũng
          có quyền phát biểu tin tức, ý kiến,
          lập trường bằng tài liệu mà không
          phải kiểm duyệt trước (prior censorship).
          Nghiã là công dân được quyền tự do ra
          báo, in sách, phát truyền đơn mà không cần
          phải xin phép xuất bản. Trong trường
          hợp việc hành xử quyền này vi phạm
          luật pháp như: 
          
            Xâm phạm quyền
              lợi hay danh dự người khác,
			
            Xâm phạm an ninh quốc
              gia, trật tự công cộng, sức khỏe công
              cộng, thuần phong mỹ tục v.v... các cơ
              quan tư pháp hay nạn nhân có quyền truy
              tố đương sự ra toà án về
              mặt hình sự hay dân sự để trả
              lời về trách nhiệm của họ.
              (subsequent liability) Các đạo luật báo
            chí còn dự liệu cho nạn nhân Quyền
            Trả Lời (Right of Reply), bắt buộc các cơ
            quan ngôn luận vi phạm quyền lợi và xúc
            phạm danh dự của nạn nhân phải
            đăng tải bài trả lời theo những
            điều kiện tương xứng với bài
            báo đã phổ biến. Dầu sao quyền
            trả lời không có hiệu lực miễn
            trừ cho người phạm luật những hình
            phạt hay những khoản bồi thường
            thiệt hại do toà án quyết định. Liên
            Hiệp Quốc nhận định rằng
            với trật tự xã hội và trật tự
            quốc tế mới, đại gia đình nhân
            loại chỉ có thể được hưởng
            Tự Do, Hòa Bình và Công Lý nếu các quốc gia
            và cá nhân biết đối xử với nhau
            trong tình huynh đệ, hữu nghị, bình đẳng,
            ôn hòa, và hợp tác. Do đó các Công Ước
            Quốc Tế Nhân Quyền cấm lạm dụng
            quyền tự do phát biểu quan điểm để
            tuyên truyền cổ võ chiến tranh, kích thích
            bạo động, gieo rắc thù hận và
            kỳ thị giữa các quốc gia, các chủng
            tộc, và các tôn giáo. (điều 20 CUDSCT) 25) Tự Do Hội Họp và
        Lập Hội (Right of
        Assembly and Freedom of Association) (điều 20 TNQTNQ và
        điều 21, 22 CUDSCT) Ai cũng có quyền hội
          họp một cách hoà bình. Quyền tập hợp
          ôn hòa không bạo động và không võ trang
          được các quốc gia thừa nhận, như
          tham dự các cuộc biểu tình, tuần hành
          để bày tỏ quan điểm và nguyện
          vọng, hay để phản kháng những vi
          phạm về quyền con người và quyền công
          dân. Quyền tập hợp vì lý do chính trị, văn
          hoá kinh tế, xã hội cũng được tôn
          trọng như quyền tập hợp để
          thờ phượng, truyền giáo và hành đạo.
          Những giới hạn ghi trên của quyền
          tự do tôn giáo cũng áp dụng cho việc hành
          xử quyền tự do chính trị. Ai cũng có quyền tự
          do lập hội để cùng theo đuổi
          những mục tiêu về ý thức hệ, tôn giáo,
          chính trị (thành lập chính đảng), kinh
          tế, lao động, (thành lập nghiệp đoàn),
          xã hội, văn hoá, thể thao v.v... Quyền lập hội có
          thể bị hạn chế theo luật đối
          với các thành phần quân nhân và cảnh sát. Công
          Ước Quốc Tế Nhân Quyền Liên Hiệp
          Quốc (1966) và Công Ước Nhân Quyền Âu Châu
          (1950) còn mở rộng sự hạn chế này
          đến với giới công chức quốc gia. Công
          Ước Nhân Quyền Mỹ Châu (1969) không
          cấm công chức tham gia đảng phái. Quyền tự do lập
          hội lên án chế độ độc đảng.
          Nó không cho phép một chính đảng nào
          được độc quyền sinh hoạt trong
          đời sống chính trị quốc gia. 26) Quyền Tham Gia Chính
        Quyền (Right to Participate
        in Government) (điều 21 TNQTNQ và điều 25 CUDSCT) Các công dân được hưởng
          quyền và cơ hội bình đẳng để
          tham dự vào chính quyền quốc gia, hoặc
          trực tiếp (bằng cách ứng cử) hay gián
          tiếp qua trung gian các đại biểu do họ
          tự do lựa chọn (bằng bầu cử).
          Những cuộc tuyển cử phải được
          tổ chức theo từng định kỳ
          bằng phương thức phổ thông đầu
          phiếu, trực tiếp và kín để quyền
          tự do lựa chọn của cử tri được
          tôn trọng. Ý nguyện của quốc dân phải
          được coi là căn bản của mọi
          quyền lực quốc gia. Ý nguyện này phải
          được biểu lộ trung thực qua các
          cuộc tuyển cử tự do và công bằng. Những điều kiện
          ứng cử vào các chức vụ công cử
          được quy định trong các đạo
          luật tuyển cử căn cứ vào tuổi,
          quốc tịch, cư trú, tư pháp lý lịch
          v.v... Quyền bình đẳng có cơ
          hội tham gia công vụ không cho phép một chính
          đảng nào được độc quyền lãnh
          đạo quốc gia. Điều 4 Hiến Pháp
          Việt Nam phải được bãi bỏ. Trong các chế độ
          độc tài đảng trị, những quyền
          tự do tinh thần và tự do chính trị thường
          bị vi phạm thô bạo là những quyền
          tự do tôn giáo, tự do tư tưởng, tự
          do phát biểu quan điểm, tự do hội
          họp, tự do lập hội và quyền bình
          đẳng cơ hội tham gia chính quyền. Các
          nạn nhân bị giam giữ do việc hành xử các
          quyền tự do tinh thần, tự do chính trị
          được Hội Ân Xá Quốc Tế vinh danh là
          tù nhân lương tâm.Về đầu bài | [Tiếng
        Anh]   Lời giới
        thiệuLời nói đầu
 Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân
        Quyền
 Quyền Dân Sự, và Chính
        Trị
 Quyền Kinh Tế, Xã Hội, và
        Văn Hóa
 Phần Diễn Giải
 Nhân Quyền Bậc 1
 Nhân Quyền Bậc 2
 Quyền An Cư
 Quyền Lạc
        Nghiệp
 Nhân Quyền Bậc 3
 Phụ Đính 1
 |