All newsletters use Unicode font     Ca'c Ba?n Tin du`ng pho^ng Unicode
50 Năm Quốc Tế Nhân Quyền
Là Một Cuộc Cách Mạng Xã Hội
Đỗ Thái Nhiên

Ngày 10 tháng 12 năm 1998 là sinh nhật thứ 50 của Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.  Chúng ta hãy nhập vào dòng sống của Nhân Quyền.  Hãy nhận định về dòng sôáng Nhân Quyền bằng nhãn quan “ngũ thập tri Thiên mệnh.”  Từ đó chúng ta sẽ thấy được một cách chân xác những khó khăn đã gây nhức nhối cho Nhân Quyền trong năm mươi năm qua.  Và cũng từ đó, chúng ta sẽ mở ra cho Nhân Quyền con đường phát triển hữu lý và bình an hướng vào thế kỷ thứ 21.

A. Những khó khăn đang đục phá Nhân Quyền
Nói một cách chung nhất Nhân Quyền là quyền của mỗi người và của mọi người được sống trong hòa và trong bình, trong yên ổn và công bằng.  Tuy nhiên, do vị kỷ thái quá, một số người đã tạo ra và sống trên bất công.  Đây là nguyên nhân cội nguồn dẫn tới vô số mâu thuẫn:  mâu thuẫn giàu nghèo, mâu thuẫn nam nữ, mâu thuẫn chủng tộc, mâu thuẫn giữa chế độ thống trị và quần chúng bị trị, mâu thuẫn giữa tham vọng độc tài và quyền tự do tín ngưỡng … Mỗi mâu thuẫn là một gai nhọn đâm vào quả tim Nhân Quyền.  Mỗi mâu thuẫn là một tệ nạn gây khó khăn lớn đối với ước mơ phát triển Nhân Quyền.

I. Tệ nạn thống trị và bị trị
Tệ nạn này là nguyên nhân quan trọng hàng đầu dẫn đến tội ác chà đạp Nhân Quyền.  Thông thường giới thống trị là một chánh đảng “Mafia hóa” kiểu CSVN, một chế độ quân phiệt kiểu Suharto tại Nam Dương trước đây, hoặc một tập đoàn độc tài kiểu Mahathir Mohamad của Mã Lai Á ngày nay.  Đôi khi giới thống trị cũng xuất phát từ một vài giáo phái cực đoan chọn khủng bố làm công cụ cho điều được tôn xưng là “thánh chiến.”  Dầu ra đời từ nhiều nguồn cội khác nhau, các chế độ độc tài đều giống nhau ở điểm:  triệt để tước đoạt mọi quyền tự do và dân chủ của người dân.  Nhân Quyền, khi đi vào thực tiễn sinh hoạt xã hội, chính là quyền tự do dân chủ.  Triệt hạ tự do dân chủ đương nhiên có hệ quả tiêu hủy toàn bộ mầm mống của Nhân Quyền.  Chế độ độc tài các loại đã viện dẫn các lý lẽ sau đây để biện minh cho hành động phản Nhân Quyền của họ:

  1. Nhân Quyền là một bộ phận thuộc phạm trù xã hội.  Vì vậy Nhân Quyền phải đứng vào hàng thứ yếu so với nhu cầu duy trì an ninh và trật tự của xã hội.  Luận cứ này hoàn toàn thiển cận.  Chế độ độc tài chưa có khả năng nhận thức được chân lý rằng:  an ninh và trật tự công cộng chỉ thực sự ổn định và bền bỉ nếu nó được xây dựng trên nền tảng thực tâm tôn trọng Nhân Quyền.

  2. Mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng.  Vì vậy mỗi quốc gia cần phải giải thích Nhân Quyền theo một ý nghĩa riêng phù hợp với nét đặc biệt của văn hóa quốc gia.  Đây là một luận cứ mơ hồ.  Nó chỉ có tác dụng giúp chế độ độc tài tránh né nghĩa vụ tôn trọng Nhân Quyền.  Các chế độ độc tài không hề và không thể chỉ ra một cách cụ thể:  điều khoản nào trong Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền đã mâu thuẫn với nền văn hóa của quốc gia đang nằm dưới ách thống trị của độc tài.  Mọi quốc gia đều vận hành và phát triển trong xã hội quốc tế.  Mọi dân tộc đều cảm thông và kết hợp trong cộng đồng nhân loại.  Vì vậy, mặc dù văn hóa của các quốc gia có những khác biệt về tiểu tiết nhưng những khác biệt đó vẫn gặp nhau tại một mẫu số chung.  Mẫu số chung kia chính là thân phận của Con Người, chính là Nhân Bản.  Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền ngày 10/12/1948, cùng với các công ước khác về Nhân Quyền, chẳng có mục đích nào khác hơn là để chi tiết hóa hai chữ  “Nhân Bản.”  Do đó luận cứ cho rằng văn hóa quốc gia và Quốc Tế Nhân Quyền có những mâu thuẫn nhất định là luận cứ vô căn cứ.  Nó chỉ có chủ ý bao che cho tội ác chà đạp Nhân Quyền.
II.  Tệ nạn chống phá quyền tự do tín ngưỡng
So với chế độ độc tài các loại, CSVN là chế độ độc tài thâm hiểm và độc ác nhất.  Có hai nguyên nhân khiến CSVN kiên trì đeo đuổi chủ trương đàn áp tôn giáo:

1/ Tham vọng độc tài kiểu Marx Lenin đã hối thúc CSVN giam cầm đời sống của người dân trên cả hai mặt thể chất và tinh thần.  Về thể chất, CSVN xử dụng tờ hộ khẩu, kinh tế quốc doanh và các loại lao tù để trói buộc tay chân của người dân.  Về tinh thần, CSVN trói buộc tư tưởng của người dân bằng cách nỗ lực đánh phá các tôn giáo.  Lòng sùng kính tôn giáo phải được thay thế bởi ý chí “trung với Đảng.”  Đảng là một siêu tôn giáo.

2/  CSVN rất sợ những tổ chức quần chúng không thuộc hệ thống ngoại vi của Đảng.  Khối tín đồ của tôn giáo là một tổ chức quần chúng cực mạnh và bền bỉ.  Khối tín đồ này là mối đe dọa thường trực nhắm vào guồng máy cai trị vô thần của CSVN.
Sinh hoạt tư tưởng của con người từ cổ chí kim đều xoay quanh ba câu hỏi:
- Trước khi ra đời con người ở đâu?
- Làm thế nào đạt được hạnh phúc trong cõi trần thế?
- Sau khi từ trần, con người đi về đâu?
Các tôn giáo có khả năng vàcó thẩm quyền trả lời câu hỏi số (1) và số (3).  Khi đàn áp tôn giáo, CSVN đã ngang nhiên chà đạp nhu cầu tối quan trọng của tư tưởng, chà đạp Nhân Quyền.

III. Tệ nạn mạnh được yếu thua
Ngày 15/10/1998, thông tấn xã AP loan tin kinh tế gia Amartya Sen, sanh quán tại Ấn Độ, đã được giải Nobel về kinh tế.  Nhân bản tin này, ký giả Judie Glave còn cho biết thêm: Trong một tác phẩm ra đời năm 1981, ông Amartya Sen đã viết:  “Tình trạng thiếu hụt thực phẩm không phải là nguyên nhân duy nhất của nạn chết đói.  Đôi khi chết đói lại là hậu quả của tệ nạn phân phối lợi nhuận bất hợp lý.  Họa chết đói tại Phi Châu vào cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 là các thí dụ điển hình.”  Ông Amartya Sen nhấn mạnh:  “Nạn chết đói có thể xảy ra ngay cả khi thực phẩm dư thừa, nhưng nguời dân lại không có tiền để mua thực phẩm.”

Nhận định của tiến sĩ Amartya Sen về nạn đói đã cho chúng ta thấy kẻ mạnh là những người nắm thế lực tài chánh, những người quyết định các lề lối phân phối lợi tức và thực phẩm trong xã hội.  Kẻ yếu là đám dân nghèo cùng khổ.  Họ chỉ biết sống nhờ vào hai cánh tay gầy yếu.  Nhận định kia cũng cho chúng ta thấy thế nào là chà đạp Nhân Quyền trên địa bàn kinh tế.

Hệ luận kề cận của hủ tục “mạnh được yếu thua” là tệ nạn trọng nam khinh nữ. Tệ nạn này là cha đẻ của tình trạng bạo hành đối với phụ nữ trong gia đình, tình trạng mãi dâm lan rộng ngoài xã hội. Luật “mạnh được yếu thua” chẳng những tác hại vào phụ nữ mà còn gây điêu đứng cho cả trẻ em.  Trẻ em bị bắt phải làm việc chân tay ở tuổi quá nhỏ, bị bóc lột sức lao động, bị cưỡng bách làm trò chơi dâm ô cho người lớn, bị trôi dạt ở đầu phố cuối chợ thay vì được ngồi trong một lớp học rực rỡ nắng mai. Do tập trung toàn bộ nhân lực vật lực vào việc bảo vệ chiếc ghế lãnh đạo, do ngu dốt về luật pháp, do mù lòa về quản trị xã hội, và nhất là do tham ô, nhũng lạm, CSVN là chánh phạm của các trọng tội: đẩy nhân dân vào cảnh sống đói nghèo, dung túng tệ nạn bạo hành đối với phụ nữ và ngược đãi trẻ em.

B. Phương pháp luận về Nhân Quyền
Nhân Quyền là mạch sống, là tương lai của loài người.  Cuộc đấu tranh cho Nhân Quyền sẽ chỉ là những ca khúc u trầm và buồn chán nếu cuộc đấu tranh này không được hướng dẫn bằng một phương pháp luận thích nghi và hợp lý.  Thực tiễn của cuộc đấu tranh cho Nhân Quyền đã cho chúng ta thấy phương pháp luận về Nhân Quyền cần được xây dựng trên ba trọng điểm:

- Thứ nhất: Đấu tranh cho Nhân Quyền chính là thực hiện một cuộc cách mạng xã hội.  Cách mạng là làm thay đổi sinh mệnh của xã hội, làm cho xã hội trở nên Người hơn, tốt đẹp hơn.  Nỗ lực đẩy xã hội đang chà đạp Nhân Quyền tiến lên một xã hội tôn trọng Nhân Quyền hiển nhiên là một cuộc vận động Cách Mạng Nhân Quyền.  Không thể có cách mạng Nhân Quyền nếu không có ý thức Nhân Quyền.  Ý thức này chỉ có thể đuợc “xã hội hóa” qua hai cửa ngõ:  giáo dục học đường và truyền thống xã hội.  Ý thức Nhân Quyền là giải đáp của ba câu hỏi chủ yếu:  Nhân Quyền là gì?  Vị trí và cung cách vận động phát triển Nhân Quyền trong đời sống cá nhân cũng như trong sinh hoạt xã hội.  Làm thế nào đưa lý tưởng Nhân Quyền vào đời sống thực tế của xã hội?  Truyền đạt ý thức Nhân Quyền làm gia tăng cán bộ cung ứng cho Cách Mạng Nhân Quyền.  Đó là điều kiện tiên quyết mà cuộc đấu tranh cần phải có để tiến tới thành công.

- Thứ hai: Ý thức về nhân quyền khi áp dụng vào thực tiễn xã hội sẽ trở thành ý chí tôn trọng luật pháp và bảo vệ Nhân Quyền.  Kinh nghiệm từ sự vận hành của các guồng máy luật pháp đã cho thấy:  Cho dù được ban hành và phổ biến ầm ĩ, những đạo luật nhân quyền vẫn chỉ là những văn bản vô nghĩa nếu người dân không được trang bị đầy đủ ý thức về Nhân Quyền.  Ý thức đó, khi kết hợp với ý chí tôn trọng luật pháp, sẽ làm nổi bật ý nghĩa của nguyên tắc:  “Mỗi người hãy vì Nhân Quyền của mọi người, và mọi người hãy vì Nhân Quyền của mỗi người.”  Trọng điểm thứ nhất là xây dựng và truyền đạt ý thức Nhân Quyền.  Trọng điểm thứ hai là mạnh mẽ phổ biến những luật pháp nhằm bảo vệ Nhân Quyền.  Hai trọng điểm này thường xuyên hỗ trợ lẫn nhau.

- Thứ ba:  Liên tục và mạnh mẽ tố cáo mọi trường hợp vi phạm Nhân Quyền của chế độ độc tài các loại.  Khi được trang bị với ý thức Nhân Quyền và ý chí tôn trọng luật Nhân Quyền, người dân sẽ quyết liệt tẩy chay các chế độ chà đạp Nhân Quyền.  Thái độ tẩy chay này sẽ buộc chế độ độc tài phải chọn một trong hai con đường:  chấp nhận Dân Chủ và Nhân Quyền, hoặc là bị lật đổ bởi lực lượng quần chúng.

C. Nhân Quyền và Chính Trị
Có khuynh hướng cho rằng sở dĩ Nhân Quyền không thể phát triển rộng rãi chỉ vì một số chính trị gia đã biến nó thành công cụ của chính trị.  Từ đó, khuynh hướng này chủ trương loại trừ chính trị ra khỏi cuộc đấu tranh cho Nhân Quyền.  Muốn có nhận định chính xác về mối quan hệ giữa Nhân Quyền và chính trị, chúng ta cần phải hiểu biết rõ về hai chữ  “chính trị.”  Chính trị bao gồm mọi lời nói và việc làm có ảnh hưởng đến quyền lực của guồng máy nhà nước.  Một số người tìm đủ mọi phương cách nhằm chiếm đoạt guồng máy nhà nước chỉ để thỏa mãn lòng háo danh và/hoặc để vinh thân phì gia.  Đó là con đường chính trị tà đạo.  Một số người khác quyết tâm trực tiếp nắm giữ hoặc tạo áp lực mạnh mẽ đối với guồng máy nhà nước, với chủ ý buộc nhà nước phải xây dựng một xã hội tôn trọng Nhân Quyền.  Đó là chính trị vương đạo.  Lý tưởng Nhân Quyêàn là tim óc của cuộc cách mạng Nhân Quyền.  Chính trị vương đạo là đôi tay rắn chắc của cuộc cách mạng Nhân Quyền.  Đôi tay đó sẽ biến ước mơ Nhân Quyền trở thành hiện thực của đời sống.  Thiếu đôi tay, cuộc đấu tranh cho Nhân Quyền hiển nhiên chỉ là một cuộc đấu tranh hoang tưởng.  Xin đừng nhân danh lòng thù ghét chính trị tà đạo để chặt đứt đôi tay của cuộc cách mạng Nhân Quyền.  Hãy tích cực phá tan mọi âm mưu biến Nhân Quyền thành công cụ của chính trị tà đạo.  Đồng thời, hãy hiên ngang vận dụng chính trị vương đạo như một công cụ không thể thiếu trên bước đường đấu tranh cho Nhân Quyền.  Nói một cách ngắn gọn và mạnh mẽ: Phương pháp đấu tranh hữu hiệu nhất cho Nhân Quyền chính là nỗ lực phân rõ sự khác biệt giữa Nhân Quyền và phản Nhân Quyền, giữa chính trị vương đạo và chính trị tà đạo.

Đến đây:
- Những khó khăn trong công cuộc bảo vệ Nhân Quyền đã được nhận diện.
- Phương pháp luận của Nhân Quyền đã được xác định.
- Mối quan hệ mật thiết giữa cuộc đấu tranh cho Nhân Quyền và chính trị vương đạo cũng đã được xác định.

Ba luận điểm trên đã dẫn đến một nhận định trang trọng:  Cuộc đấu tranh cho Nhân Quyền hiển nhiên là một cuộc cách mạng xã hội, một cuộc cách mạng khai thông đường sống cho dân tộc và cho nhân loại.  Đấu tranh cho Nhân Quyền không thể chỉ là những hành động “làm dáng chính trị.”  Tất cả chúng ta có quyền và có bổn phận dấn thân vào cuộc cách mạng Nhân Quyền.  Hãy biến ước mơ Nhân Quyền thành hiện thực của xã hội, thành một bông hoa thật tươi mát và sinh động.  Đó là lời chúc mừng sinh nhật của Nhân Quyền ở thời điểm “ngũ thập tri Thiên mệnh.”

Về đầu bài

Ban tin so 4 Ban tin so 6 Trong Bản Tin Số 5:
Lá thư đầu năm
Nghị Quyết Đại Hội Kỳ 2
(Second Congress Resolution)
Lời Kêu Gọi 50 Năm QTNQ
(Statement on 50th Anniverary)
1999-Một Vận Hội Mới
MLNQ Họp Đại Hội Kỳ 2
(Second Congress Report)
Đại Xá, Nhưng Vẫn Chà Đạp NQ
50 Năm Quốc Tế Nhân Quyền
Lịch Sinh Hoạt
Khí Thế Đấu Tranh

Mang Luoi Nhan Quyen Viet Nam
[Trang nha] [MLNQ] [Luat nhan quyen] [Tai lieu] [Tin nhan quyen] [Ban tin] [Tham gia] [Tai xuong] [Lien ket]